Vào khoảng 1h sáng ngày 26/12/2004, gần đảo Simeolue, ngoài khơi bờ biển phía tây của miền bắc Sumatra (Indonesia) đã xảy ra một trong ba trận động đất kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại.
Cường độ của trận động đất là 9,3 Mw (moment magnitude scale - thang độ lớn mô men), chỉ mạnh sau trận động đất mạnh nhất trong lịch sử có cường độ 9,5 Mw ở Chile vào năm 1960. Trận động đất kéo theo một chuỗi các đợt sóng thần chết người lan tỏa khắp Ấn Độ Dương. Những con sóng cao 30m tàn phá các cộng đồng dân cư sinh sống ven biển ở Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar và những nơi khác.
Cơn địa chấn Ấn Độ Dương làm rung chuyển mặt đất với cường độ mạnh hơn trận động đất Loma Prieta xảy ra năm 1989 khoảng 100 lần. Nó có thời gian kéo dài lâu nhất (từ 500 đến 600 giây) mà người ta có thể ghi nhận được. Sự tàn phá được ghi nhận trong phạm vi 6.900km tính từ tâm thảm họa.
Cường độ khổng lồ của sự dịch chuyển dưới nước của Trái Đất đã dẫn đến sự hình thành của những con sóng khổng lồ cuốn trôi sự sống trên những hòn đảo gần đó và tận các lục địa xa xôi. Nó cũng kích hoạt các trận động đất gây thiệt hại ở những khu vực khác - Alaska, bờ biển xa xôi của Australia, bờ biển phía đông châu Phi. Nơi xa nhất có ghi nhận tử vong do sóng thần là ở Cảng Elizabeth (Nam Phi), cách xa tâm chấn đến 8.000km. Sóng thần vượt qua khoảng cách 8.500km đến tận Struisbaai (Nam Phi) – nơi 5 giờ sau cơn địa chấn, nó tạo ra những đợt triều cường cao 1,5m.
Ở vùng nước sâu ngoài đại dương, sóng thần chỉ là những đợt sóng nhấp nhô, khó nhận biết và di chuyển với tốc độ từ 500-1.000km/h; ở vùng nước cạn gần bờ, vận tốc của nó chỉ còn 10km/h nhưng đó là lúc bắt đầu hình thành những đợt sóng lớn có sức công phá khủng khiếp. Các nhà khoa học điều tra thiệt hại ở Aceh cho biết, sóng thần ở đây lên đến độ cao 24m khi đến gần bờ và di chuyển dọc theo những dải đất rộng; tại một vài khu vực, khi vào đến đất liền độ cao của chúng lên đến 30m.
Tâm điểm - điểm mà bản thân sự dịch chuyển thạch quyển, nằm trong Vành đai Lửa Thái Bình Dương - vùng địa lý chiếm 80% tổng số trận động đất thường xảy ra trên Trái Đất. Độ sâu nơi trận động đất diễn ra là 30 km tính từ bề mặt đại dương thế giới. Đã xảy ra sự dịch chuyển mảng kiến tạo đột ngột và rất dài - một vết nứt khổng lồ với chiều dài 1.200-1.600km đã hình thành.
Điều đó gây ra sự hình thành của một cơn sóng thần khổng lồ. Những con sóng thần dấy lên trong đại dương có sức công phá tương đương 5 megaton TNT (20 petajoule). Sức mạnh này gấp đôi tổng khối lượng chất nổ trong Thế chiến II (kể cả hai quả bom nguyên tử ném xuống Nhật Bản). Sóng vươn tới 4km trên các đảo, phá hủy các thành phố và sau đó cuốn chúng vào đại dương. Tại nhiều nơi, các đợt sóng thần đã tiến sâu đến 2 km vào đất liền.
Hệ lụy nhãn tiền
Sự chuyển động được mô tả của vỏ trái đất diễn ra theo 2 giai đoạn. Khoảng thời gian giữa các cơn chấn động kéo dài khoảng vài giờ. Mặc dù vậy, cư dân của tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng đã bị bất ngờ. Điều thú vị là các loài vật ngay lập tức cảm nhận được, các loài chim và động vật rời khỏi tất cả các vùng ven biển và đi sâu vào các phần lục địa, nhưng con người không chú ý. Hậu quả là 235.000 người chết, 100.000 người mất tích.
Cho đến nay, đây là một trong những thảm họa làm chết nhiều người nhất trong lịch sử thế giới hiện đại, kể từ cơn địa chấn Đường Sơn hoặc trận bão xoáy Bhola năm 1970. Dân số của 18 quốc gia, bao gồm Sri Lanka, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia, Madagascar, Seychelles, Nam Phi, Kenya... bị ảnh hưởng. Thiệt hại về vật chất ước tính hàng tỷ USD. Theo Liên Hợp Quốc, hoạt động cứu hộ và khắc phục thiệt hại do động đất gây ra tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại.
Tại một số khu vực, đồng ruộng và nguồn cung cấp nước uống bị ô nhiễm trong nhiều năm do nước biển tràn vào. Cũng có những quan ngại về việc số tử vong cao sẽ làm lây lan dịch bệnh như tiêu chảy, bệnh bạch hầu, bệnh lỵ, thương hàn và viêm gan siêu vi A & B, cũng như nạn đói do mật độ dân số cao và khí hậu nhiệt đới tại những vùng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, do được xử lý kịp thời, những nguy cơ này đã được giảm thiểu.
Động đất và sóng thần có thể ảnh hưởng đến thuỷ lộ đi qua eo biển Malacca vì làm thay đổi độ sâu đáy biển, làm xáo trộn các phao hoa tiêu và những xác tàu chìm. Thiết lập hải đồ hoa tiêu mới phải mất hàng tháng hoặc hàng năm. Những khu nghỉ dưỡng ven bờ Thái Bình Dương của Thái Lan, không bị tàn phá bởi sóng thần, nhưng bị suy sụp vì du khách huỷ bỏ kỳ nghỉ.
Có những bản tường trình về sự thiệt hại nghiêm trọng tác hại đến các hệ sinh thái như rừng đước, rặng san hô, rừng cây, vùng đất ngập mặn duyên hải, hệ thực vật, đồi cát, cấu tạo đá, nguồn nước ngầm và tính đa dạng sinh học động vật và thực vật. Hơn nữa, sự phát tán chất thải rắn và lỏng cùng các loại hoá chất, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, sự tàn phá hệ thống cống rãnh và những nhà máy xử lý đang đe doạ môi trường theo hướng khó lường.
Theo các chuyên gia, tác hại lớn nhất là ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm đất do nước mặn từ biển thâm nhập vào đất liền, cấu tạo một lớp muối trên bề mặt đất trồng trọt. Tại Maldives, có từ 16 đến 17 đảo san hô vòng bị tràn ngập bởi sóng biển nên hoàn toàn không còn nước ngọt và được xem là không thể phục hồi trong vài thập niên tới.
Đất bị ngập nước biển trở nên cằn cỗi, không dễ phục hồi chúng thành đất nông nghiệp. Nước biển làm chết cây cối và huỷ diệt các loại vi sinh vật rất cần cho đất. Hàng ngàn hec-ta cánh đồng trồng lúa và nông trang trồng xoài và chuối ở Sri Lanka bị huỷ hoại hoàn toàn và phải mất nhiều năm để phục hồi.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.