Mỹ và EU mua nhiều nhất, xuất khẩu tôm đặt mục tiêu thu 4 tỷ USD
Mỹ và EU mua nhiều nhất, mặt hàng thủy sản này của Việt Nam đặt mục tiêu thu về 4 tỷ USD
Minh Ngọc
Thứ sáu, ngày 11/03/2022 15:26 PM (GMT+7)
Chiến sự Nga-Ukraina, cộng với chi phí nhiên liệu, phí vận chuyển quốc tế tiếp tục tăng là những yếu tố tác động mạnh mẽ lên giá thành sản phẩm đối với con tôm của Việt Nam năm 2022.
Mỹ và EU mua nhiều nhất, con tôm Việt Nam đặt mục tiêu thu về 4 tỷ USD
Sáng nay, 11/3, tại Sóc Trăng, Bộ NNPTNT tổ chức Hội nghị Phát triển ngành tôm năm 2022.
Ông Trương Đình Hòe - Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, chiến sự Nga-Ukraina, cộng với chi phí nhiên liệu, phí vận chuyển quốc tế tiếp tục tăng là những yếu tố tác động mạnh mẽ lên giá thành sản phẩm đối với con tôm của Việt Nam năm 2022.
Theo Tổng Thư ký VASEP, giá thành tăng dẫn đến làm giảm sức cạnh tranh của tôm Việt Nam so với tôm Ấn Độ, Ecuador và Indonesia.
Ông Hòe nhận định, xuất khẩu tôm Việt Nam trong năm 2022 sẽ tăng trưởng từ 10-12%, vượt mốc 4 tỷ USD. Trong đó, tăng trưởng về giá trị khoảng 7-10%; tăng trưởng về sản lượng 2-3%.
Năm 2022 Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn là những thị trường chính xuất khẩu tôm của Việt Nam. Bên cạnh đó cần tập trung thêm các thị trường tiềm năng khác như: Canada, Úc, Anh,…thị trường Nga sẽ bị đứt đoạn do các nguy cơ về thanh toán và vận chuyển và sẽ khó phục hồi trong thời gian ngắn.
2 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 550.428 tấn, tăng 46,3% so với cùng kỳ 2021.
Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2022, Việt Nam phấn đấu sản xuất khoảng 260.000-270.000 con tôm bố mẹ. Trong đó, tôm thẻ chân trắng 200.000-210.000 con, tôm sú 60.000 con; tôm giống khoảng 140-150 tỷ con (tôm thẻ chân trắng 100-110 tỷ con và tôm sú 30-40 tỷ con).
Diện tích nuôi tôm đạt 750.000ha; sản lượng tôm các loại 980 nghìn tấn. Trong đó tôm sú 275 nghìn tấn, tôm thẻ chân trắng 675 nghìn tấn, còn lại là tôm khác.
Tại Hội nghị, đại diện các tỉnh Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu cho rằng, bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngành sản xuất nuôi tôm của nước ta vẫn còn bộc lộ những bất cập, hạn chế.
Điển hình là nguồn tôm bố mẹ phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên. Trong nước mới cung cấp được một phần, dẫn tới người nuôi tôm cũng như doanh nghiệp chưa chủ động được trong sản xuất.
Còn nhiều cơ sở chưa được kiểm tra cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thuỷ sản theo quy định của Luật Thuỷ sản, nhưng vẫn được cấp chứng nhận kiểm dịch.
Bên cạnh đó, giá thành sản xuất tôm ở nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân là do thức ăn nuôi tôm vẫn đang chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất (khoảng trên 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp). Chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; giá cước vận chuyển vật tư tăng cao.
Cộng thêm hạ tầng vùng nuôi chưa đảm bảo, đặc biệt là hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản chủ yếu vẫn dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật.
Hệ thống cấp, thoát nước không đảm bảo, các vùng nuôi thâm canh không có ao xử lý nước nên dễ xảy ra dịch bệnh. Nguồn nước dễ bị ô nhiễm do quá trình sản xuất và sinh hoạt, thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến đề nghị các địa phương đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào nuôi tôm. Trong đó, nhấn mạnh vai trò của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, cần đẩy mạnh nghiên cứu, nhân rộng sản xuất tôm bố mẹ chất lượng cao, hạn chế tối đa nhập khẩu.
Ông Tiến yêu cầu các đơn vị, doanh nghiệp đẩy mạnh tổ chức liên kết trong chuỗi tôm. Các cơ sở nuôi nhỏ lẻ cần liên kết thành HTX, tổ hợp tác. "Đây là hình thức sản xuất rất quan trọng, liên kết theo chuỗi sẽ thúc đẩy ngành tôm phát triển bền vững", ông nói.
Ông Lê Bá Anh- Phó Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Bộ NNPTNT) cho hay, năm 2021, có 64 lô hàng tôm bị cơ quan thẩm quyền nước nhập khẩu cảnh báo. Trong đó đáng chú ý là cảnh báo về các chỉ tiêu phosphate 22 lô (chiếm 34,3%), bệnh thủy sản 21 lô (chiếm 32,8%), vi sinh 9 lô (chiếm 14%), kim loại nặng 1 lô (chiếm 1,56%), ghi nhãn 2 lô (chiếm 3,12%).
Riêng về tồn dư hóa chất, kháng sinh cấm có 8 lô (chiếm 12,5%) giảm so với tỷ lệ cảnh báo năm 2020 đối với nhóm chỉ tiêu này (10 lô bị cảnh báo liên quan đến hóa chất, kháng sinh chiếm 28,3% tổng số lô hàng bị cảnh báo).
Vui lòng nhập nội dung bình luận.