Năm 1832 một trận dịch tả lớn đã hoành hành ở thành phố New York. Trước khi đại dịch ập đến, thị trưởng thành phố khi ấy là Walter Bowne đã nhận được tin nói rằng dịch tả đang lan rộng ở Canada.
Vị thị trưởng lập tức đã ra lệnh phong tỏa thành phố. Theo lệnh này, không có một phương tiện nào được phép tiếp cận phạm vi 300 yard (khoảng 275 m) tính từ đường biên giới của New York.
Nhưng lệnh cách ly cứng rắn này tỏ ra không hiệu quả trong việc ngăn chặn sự lan truyền đại dịch. Dịch tả đã tràn vào thành phố, khiến hơn 3.500 người chết trong một tháng.
Điều đáng nói là dù đã có lệnh phong tỏa, vẫn có 70.000 người rời khỏi New York và truyền bệnh sang các vùng khác ở nước Mỹ, khiến tình hình trở nên nghiêm trọng.
Đúng 60 năm sau, năm 1892, New York lại hứng chịu một trận đại dịch khác. Khi đó, một đợt dịch sốt phát ban bùng phát ở vùng Lower East Side thuộc Manhattan, trong cộng đồng những người nhập cư Do Thái gốc Nga.
Sở Y tế thành phố New York khi đó đã bắt giữ hàng trăm người nhập cư, cách ly họ trên các cơ sở ở đảo North Brother ở sông Đông.
Trái với người nhập cư, những người dân New York mắc bệnh hoặc bị nghi mắc bệnh lại không bị cách ly triệt để như vậy. Điều đó khiến dịch sốt phát ban có cơ hội lan truyền trong thành phố, gây nên cái chết của nhiều người.