Chiều qua (18/5), tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ Đinh Ngọc Hệ (còn có tên Út "trọc", Út Hệ, Út) và đồng phạm, Hội đồng xét xử đã tiến hành thẩm vấn nhóm bị cáo nguyên là cán bộ của Quân đội, trong đó có ông Nguyễn Văn Hiến, cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Việc thẩm vấn của tòa để làm rõ về việc thực hiện đàm phán, kiểm tra, thực hiện các thủ tục trong việc ký hợp đồng thành lập công ty liên doanh Yên Khánh Hải Thành, bản chất của hợp đồng liên doanh này là cho thuê đất.
Các khu đất số 2 (diện tích 1.995 m2), số 7-9 (diện tích 3.531 m2) và số 9-11 (diện tích 1.660 m2) tại đường Tôn Đức Thắng, quận 1, TP.HCM có nguồn gốc là đất Quốc phòng, thuộc quyền quản lý của Quân chủng Hải quân (QCHQ).
Năm 2006, Ban Thường vụ Đảng ủy QCHQ nhất trí phương án hợp tác kinh doanh do cơ quan chức năng, doanh nghiệp đề xuất. Bộ Tư lệnh Hải quân đã báo cáo và được Thủ trưởng Bộ Quốc phòng nhất trí về chủ trương. Lãnh đạo Bộ Quốc phòng yêu cầu QCHQ chỉ được hợp tác liên doanh sau khi hoàn thành các thủ tục liên quan về quản lý, khai thác các khu đất theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc không ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng.
Để thực hiện chủ trương trên, QCHQ giao cho các cơ quan chức năng và công ty Hải Thành của QCHQ, trực tiếp là các bị cáo Bùi Như Thiềm (nguyên Trưởng phòng Kinh tế), Đoàn Mạnh Thảo (nguyên Trưởng Phòng Tài chính), Bùi Văn Nga (nguyên Giám đốc công ty Hải Thành) và Trần Trọng Tuấn (Phó giám đốc Hải Thành) triển khai thực hiện.
Quá trình thực hiện, bị cáo Bùi Như Thiềm sau khi đàm phán đã tham mưu cho Thường vụ Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hải quân cho đối tác thuê 03 khu đất quốc phòng nêu trên dưới hình thức ký hợp đồng liên doanh khoán lợi nhuận, thời hạn 49 năm. Sau đó trình ông Nguyễn Văn Hiến ký ủy quyền cho Bùi Văn Nga ký hợp đồng liên doanh với các đối tác; ký bảo đảm vào hợp đồng liên doanh khu đất số 7-9 khi chưa được chuyển mục đích sử dụng đất. Ký các văn bản tạo điều kiện cho Công ty Yên Khánh chuyển loại hình doanh nghiệp và nắm giữ quyền quản lý, sử dụng đất trái quy định của Bộ Quốc phòng và Luật Đất đai năm 2003.
Trường hợp bị cáo Bùi Văn Nga, thực hiện ủy quyền của Tư lệnh Nguyễn Văn Hiến, Bùi Văn Nga đồng ý cho các đối tác thuê 03 khu đất quốc phòng để thực hiện dự án dưới hình thức hợp đồng liên doanh thời hạn 49 năm, khi các khu đất chưa được chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất quốc phòng làm kinh tế; không lập dự án đầu tư trình Bộ Quốc phong phê duyệt theo quy định…
Khi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thời điểm đó là Đại tướng Phùng Quang Thanh có ý kiến chỉ đạo QCHQ "không được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, vì sẽ bị mất đất", nhưng Bùi Văn Nga vẫn ký họp đồng góp vốn với Công ty TNHH Yên Khánh Hải Thành bằng giá trị quyền sử dụng đất khu đất số 7-9.
Bị cáo không phối hợp với các phòng Tài chính, Kinh tế để thực hiện thủ tục thu nộp, quản lý, sử dụng số tiền chuyển mục địch sử dụng 03 khu đất trên theo quyết định UBND TP.HCM đã phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật.
Trả lời trước tòa, bị cáo Nguyễn Văn Hiến đã nói về chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thời điểm đó. Theo bị cáo Hiến, sau khi có chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông có giao văn phòng sao thành 13 bản gửi các cán bộ trong Thường vụ Đảng ủy QCHQ, các cơ quan chức năng. Sau đó giao cho phòng Tài chính –đơn vị quản lý vốn triển khai cho công ty Hải Thành cũng như gửi thẳng văn bản chỉ đạo từ Bộ cho công ty.
Bị cáo Hiến cho hay, ông không trực tiếp kiểm tra việc thực hiện theo chỉ đạo của Bộ trưởng. Năm 2010 khi triển khai nội dung trên thì năm 2011 có văn bản tổng kiểm tra, rà soát các dự án, trong đó có 3 dự án (3 khu đất ở đường Tôn Đức Thắng) về việc chấp hành luật pháp, chấp hành quy định của Bộ Quốc phòng, chấp hành quy định của QCHQ. Đoàn công tác phải đến từng công ty, từng khu đất để kiểm tra báo cáo.
Cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Hiến đã thừa nhận, ông có khuyết điểm. Đó là trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ Tư lệnh QCHQ nhưng thiếu sát sao, quyết liệt. Mặc dù ông ra mệnh lệnh kiểm tra, đã họp Bộ Tư lệnh QCHQ phân công công tác triển khai các nhiệm vụ của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng nhưng không làm đến cùng.