Trong Tam quốc diễn nghĩa, điểm phân biệt giữa Gia Cát Lượng và các mưu lược gia nổi tiếng khác thời Tam quốc là khả năng dùng "kỳ binh" của mình. Tuân Úc, Quách Gia hay Tư Mã Ý đều rất giỏi nhưng chỉ giỏi binh pháp thông thường, dùng người để trị người. Còn Gia Cát Lượng đã đạt đến một cảnh giới cao trong điều binh khiển tướng. Lần dùng "kỳ binh" ngoạn mục nhất phải kể đến là khi Gia Cát Lượng phục sẵn trận đồ Bát Quái, bức cho tướng nước Ngô là Lục Tốn nguy khốn một phen.
Thần bí thạch trận
Do sai lầm của Lưu Bị vì nóng lòng báo thù cho người huynh đệ kết nghĩa Quan Vũ đã cử 70 vạn quân sang đánh Đông Ngô. Sau quãng thời gian đầu lấn át, thắng thế, quân Thục của Lưu Bị rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan sau khi đô đốc Đông Ngô là Lục Tốn quyết cầm cự, không ra đánh. Sang đến mùa hè năm 222, lợi dụng thời tiết nóng bức, gió đông nam thổi mạnh, Lục Tốn cho quân phản công, dùng hỏa công thiêu trụi 40 trại của Lưu Bị trải dài 700 dặm.
Sau này, Lưu Bị thua chạy, Lục Tốn mang quân đuổi theo truy kích. Khi đuổi đến ải Quỳ Quan, Tốn ngồi trên ngựa, trước mặt thấy chỗ cạnh bờ sông bên sườn núi có một đám sát khí bốc ngùn ngụt lên tận trời. Tốn nghi có mai phục nên cho đại quân dừng lại, lùi 10 dặm, dựng trại đợi địch đến giao chiến.
Quân do thám về báo không thấy bất cứ đạo binh mã nào. Tốn vẫn chưa tin, tự mình cưỡi ngựa lên núi quan sát nhưng cũng không thấy bất cứ dấu hiệu khả nghi nào khác. Tuy vậy, càng về tối thì sát khí bốc lên ngày càng mạnh. Lục Tốn nghi hoặc, sai người tâm phúc đi do thám. Người đó về báo rằng không có quân mã nào mai phục mà chỉ có chừng tám chín mươi đống đá ngổn ngang dựng ở cạnh bờ sông. Tốn tự mình đi hỏi thổ dân ở đó thì được biết bến này tên là Ngư Phúc, trước khi vào Xuyên, Gia Cát Lượng đi qua đây đã lấy đá bày ra thế trận này. Từ đó, ngày nào cũng có sát khí bốc lên ngùn ngụt.
Lục Tốn tự mình thân chinh, mang vài chục quân kỵ mã đến tận nơi dò la. Tốn đứng trên núi nhìn xuống thì thấy thạch trận này bốn mặt tám phương đều có cửa ra vào. Tốn cười cho đó là mê thuật làm mê hoặc lòng người. Đoạn, Tốn cầm quân thân chinh đi vào bãi đá xem xét.
Khi chuẩn bị trở về, bỗng đâu một cơn gió lớn nổi lên, cát sỏi bay lên mù mịt, lại thấy đá dựng lên chơm chởm như gươm cắm, cát nổi lên từng đống như núi, dưới sông lại thấy nước chảy cuồn cuộn, tiếng reo như trống rung. Lục Tốn giật mình nói: "Ta mắc phải mẹo Gia Cát Lượng mất rồi". Tốn vội vàng tìm đường ra nhưng đã lạc vào thạch trận, loay hoay mãi vẫn chưa thấy lối thoát. Đang trong cơn túng quẫn thì bỗng đâu thấy một cụ già đứng ở trước ngựa, nói: "Tướng quân có muốn ra khỏi trận này không?". Tốn cầu xin ông cụ dẫn ra khỏi thạch trận.
Cụ già chống gậy, đi từ từ dẫn Lục Tốn thoát khỏi thạch trận. Tốn đa tạ rồi hỏi danh tính thì mới biết đó chính là Hoàng Thừa Ngạn tiên sinh, bố vợ của Gia Cát Lượng. Hoàng tiên sinh giải thích: "Khi rể lão vào Xuyên, có bày thạch trận ở đây, gọi là Bát trận đồ chia làm tám cửa, theo hưu, sinh, thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai, trong độn giáp. Mỗi ngày, mỗi giờ, biến hoá không biết đâu mà lần, sánh bằng mười vạn tinh binh. Khi con rể lão đi có dặn lão rằng: "Về sau, có đại tướng Đông Ngô lạc vào trận này, thì đừng có đưa ra!" Mới rồi, lão chơi trên sườn núi. Thấy tướng quân từ cửa Tử đi vào, chắc rằng không hiểu trận này, thế nào cũng lạc lối. Lão xưa nay ưa làm phúc, không nỡ để tướng quân chết tại đây, cho nên dắt tướng quân ra cửa sinh".
Tốn lại hỏi phép bày trận này có học được không, Hoàng Thừa Ngạn trả lời: "Phép trận này biến hóa vô cùng, không sao học được". Tốn lạy tạ rồi quay ngựa ra về, đến trại than rằng: "Khổng Minh đúng là "Rồng nằm"! Ta không bằng được!", rồi hạ lệnh rút quân.
Người duy nhất phá được trận đồ bát quái của Gia Cát Lượng
Bát trận đồ được Gia Cát Lượng dùng đá xây dựng trên bãi cát của vùng đất Ngư Phúc, trong cổ đại, không ít nhân vật nổi tiếng đã từng nhìn thấy, Tô Đại Hồ Tử của Bắc Tống cũng từng nhìn thấy, ông ta từ trên núi nhìn xuống, nhìn thấy bát trận đồ có khoảng cách hơn 100 dặm, thành tám hàng, 64 cột mốc, mỗi cột mốc đều là hình vòng tròn, toàn bộ bát trận đồ không có một chỗ nào là lồi lõm hết, giống như là bóng của mặt trời vậy. Tô Đại Hồ Tử liền đến gần để nhìn kỹ, nhưng lại nhìn thấy chỉ toàn là đá, nhiều vô số không phân biệt được. Bản thân ông ta cũng cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tô Đông Pha không giải được, hàng ngàn năm nay, không biết có bao nhiêu người dẫn binh đánh trận cũng xem không hiểu. Nhưng có một người, lại phá giải được sự huyền bí của bát trận đồ, người đó chính là Tư Mã Hoàn Ôn, đại tướng nhà Đông Tấn.
Hoàn Ôn (312–373) là đại tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc, cha Hoàn Ôn là Hoàn Di, thái thú Tuyên thành (An Huy). Ngày Hoàn Ôn chưa đầy 1 tuổi, có người bạn thân của Hoàn Di là Ôn Kiệu tới chơi, tỏ ra rất quý ông. Vì vậy Hoàn Di liền đặt tên con theo họ của bạn là Hoàn Ôn.
Tương truyền trên mặt Hoàn Ôn có 7 nốt ruồi đen, được coi là quý tướng.
Hoàn Ôn lấy: "Nếu không thể lưu danh trăm đời, thì để lại tiếng xấu vạn năm", làm phương châm đời người, năm đó, ông thống lĩnh đại quân viễn chinh Ba Thục. Đột nhiên, phía trước có một luồng sát khí nổi lên trên trời, cản con đường đang đi của đoàn quân. Hoàn Ôn dẫn các tướng lĩnh thuộc hạ đi thăm dò, thì ra sát khí đến từ một đống đá 'bát trận đồ' do Gia Cát Võ Hầu bày bố. Hoàn Ôn quan sát một cách rất chi tiết, rất lâu sau, ông gật đầu nhè nhẹ, trong mắt lộ rõ ánh sáng chói ngời của vui mừng. Hoàn Ôn cười hỏi các thuộc hạ: "Các vị có biết, cái mà bát trận đồ bày bố thực sự là trận pháp gì không?"
Mọi người đều vô cùng hoang mang, lắc đầu lia lịa, Hoàn Ôn cực kỳ khẳng định nói: "Đây là thế Thường Sơn xà đó!"
Thường Sơn xà, giống như tên gọi, là một loại rắn sống ở núi Thường Sơn, tên là Suất Nhiên, nó có một đặc điểm rõ rệt: Tấn công đầu thì đuôi cứu, tấn công đuôi thì đầu cứu, tấn công chính giữa thì đầu đuôi cùng cứu! Con người dựa theo đặc điểm của nó phát minh ra Thường Sơn xà trận, lợi hại vô cùng! Sau đó Hoàn Ôn đổi đường khác để đi, ông dùng uy phong hơn trăm lần để hủy diệt Thành Đô, trong Thành Đô chém giết cướp bóc, hủy diệt hoàn toàn Thành Đông, nhưng duy nhất không dám đụng đến một cành cây ngọn cỏ ở đền Gia Cát Võ Hầu. Ông đối với Gia Cát Lượng vô cùng kính trọng và khiếp sợ, nếu ông không có sự chắc chắn tuyệt đối, cũng không dám đưa ra định nghĩa cho bát trận đồ.
Vì vậy, cái mà bát trận đồ đối ứng trên thực tế chính là Thường Sơn xà trận, chắc chắc là chính xác không thể sai được. Chân tướng của sự thật đại khái chính là, Gia Cát Lượng bề ngoài là bày bố bát trận đồ (tuyên truyền ra ngoài cũng vậy), trên thực tế, lại vô cùng kỳ diệu đem Thường Sơn xà trận ẩn tàng bên trong.
Thời gian thấm thoát, chúng ta đã không còn nhìn thấy được bát trận đồ thực sự nữa rồi, nhân gian thiếu mất một loại truyền kỳ, chúng ta thiếu mất sự tưởng tượng vô hạn. Thật đáng tiếc!
Dịch và giải nghĩa bài thơ "Bát Trận Đồ" của thi Thánh Đỗ Phủ:
"Công lớn chia Tam Quốc
Thành danh bát trận đồ
Sông chảy đá chẳng rời
Để hận thất chiếm Ngô."
Giải nghĩa: Khổng Minh có công lớn nhất trong việc đánh bại quân Tào Tháo trong trận chiến Xích Bích, hình thành thế đứng kiềng ba chân: Thục Hán – Tào Ngụy – Tôn Ngô, về sau chính thức đi vào thời kỳ Tam Quốc, vì vậy Đỗ Phủ nói công lao lớn nhất của Khổng Minh là phân chia ra Tam Quốc. Và danh tiếng của Khổng Minh đến thời nay vẫn được nhiều người biết đến thông qua bát trận đồ, có thể nói ông lưu danh ngàn năm nhờ có bát trận đồ. "Sông chảy đá chẳng rời" là nói về sự ảo diệu trong thế trận bát trận đồ của Khổng Minh, những hòn đá trong bát trận đồ dù có bị nước sông đánh tràn vào cũng không bị lung lay di chuyển, vẫn đứng im như ban đầu.