Quan hệ giữa Đại Việt và Lan Xang vốn không tốt kể từ đầu thế kỷ 14, đến thế kỷ 15 lại tiếp tục xấu đi. Lan Xang từng mang quân đánh phá biên giới Đại Việt và xung đột bùng phát.
Sau đó, theo sử Lào, năm 1478 một viên tướng của Lan Xang bắt được một con voi trắng dâng Vua. Theo quan niệm thời ấy, vị Vua nào được sở hữu voi trắng được xem là điềm lành. Vì vậy voi trắng được xem là bảo vật vô giá ở các nước như Lan Xang, Xiêm La, Miến Điện, v.v..
Cũng trong thời điểm năm 1478, theo “Việt Nam sử lược” thì Bồn Man (Muang Phuan) từ lâu vốn thần phục Đại Việt, nhưng tù trưởng là Lư Cầm Công bỗng liên kết với Lan Xang đem quân cướp phá châu Quy Hợp (thuộc Nghệ An ngày nay). Vua Lê quyết định cất quân sang đánh nhằm giữ yên vùng biên giới.
Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép rằng:
“Đặc sai Thái uý Sùng quận công Lê Thọ Vực, Đoan Vũ hầu Trịnh Công Lộ, Diên Hà bá Lê Hy Cát đeo ấn tướng quân, trao cho 20 vạn quân tinh nhuệ, hẹn đến tháng 8 năm nay, chia đường tiến quân, kể tội đến đánh”.
Tuy vậy khi xuất quân, Đại Việt tập hợp được 18 vạn quân, chia làm 5 cánh tiến đánh. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi chép rằng:
“Đã định ngày 28 tháng 7 này, đặc mệnh tướng thần, chia đường tiến đánh. Chinh Tây tướng quân Lê Thọ Vực là tiên phong, đi đường chính chỉ huy các quân các doanh du kích, trước hãy giết tên cháu hiếu của giặc Bồn Man để chặt vây cánh nó, rồi chiếm ngay đất hiểm yếu là xứ Trấn Ninh mà đánh vào lòng giặc. Chinh Di tướng quân Trịnh Công Lộ chỉ huy các doanh quân thổ binh từ đường An Tây tiến vào để chiếm giữ mạn thượng lưu. Trấn Lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn chỉ huy các doanh quân hoành dã từ đường Ngọc Ma đánh tới để cắt ngăn đường giặc chạy. Du kỵ phó tướng quân là bọn Lê Lộng đi đường châu Thuận Mỗi để bóp cổ chẹn lưng. Thảo tặc phó tướng quân là bọn Lê Nhân Hiếu theo lối phủ Thanh Đô để đánh chỗ sơ hở”.
Từ nguồn sử liệu Đại Việt Sử ký Toàn thư có thể thấy 5 cánh quân Đại Việt tiến đánh Bồn Man và Lan Xang như sau:
Cánh quân trung tâm do Lê Thọ Vực chỉ huy từ phủ Trà Lân (thuộc Nghệ An ngày nay) đánh vào Bồn Man, rồi tiến sang Lan Xang. Cánh quân phía bắc do Trịnh Công Lộ chỉ huy từ phủ An Tây (Lai Châu ngày nay) đánh thẳng vào Kinh đô Luang Prabang của Lan Xang. Cánh quân phía nam của Lê Đình Ngạn từ phủ Ngọc Ma (thuộc Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) đánh vào Bồn Man rồi tiến sang Lan Xang. Cánh quân của Lê Lộng (Nguyễn Lộng) từ Thuận châu (Sơn La ngày nay) yểm trợ cho cánh quân phía bắc của Trịnh Công Lộ đánh vào Kinh đô Luang Prabang của Lan Xang. Cánh quân của Lê Nhân Hiếu từ phủ Thanh Đô (thuộc Thanh Hóa ngày nay) tiến đánh Bồn Man rồi sang Lan Xang.
Quân Đại Việt nhanh chóng vượt qua Bồn Man, các cánh quân lần lượt tiến đến Lan Xang và giành các chiến thắng. Quân chủ lực Lan Xang chuẩn bị sẵn một trận địa mai phục ở đồi Poomung nhằm chặn quân Việt đến Kinh đô.
Các cánh quân Việt lần lượt đến đồi Poomung, những trận đánh lớn diễn ra tại đây, kéo dài suốt 3 ngày, cuối cùng quân Đại Việt thắng, quân Lan Xang rút chạy đến Na Khaochao (nay là chùa Wat Vixun).
Quân Việt truy đuổi đến, giao tranh lớn diễn ra ở cánh đồng Na Moungkon và Na Haidio. Cuối cùng quân Đại Việt bao vây và đánh bại quân Lan Xang, 2 tướng Muen Kwatepa và Muen Neua tử trận.
Lan Xang vội cử 2 tướng Muen Bun và Muen Luan đến cứu viện nhưng cũng bị đánh bại. Các tướng Norasing, Noranarai, Noradet và Norara bị bắt sống. Thế tử Chao Chienglaw bị thương nặng rồi sau đó cũng bị bắt.
Vua Lan Xang là Xaiyna Chakhaphat vội cùng hoàng tộc bỏ Kinh thành chạy đến Chieng Khan của vương quốc Lan Na (nay thuộc tỉnh Loei của Thái Lan). Quân Đại Việt tiến chiếm Kinh đô Luang Prabang.
Quân Đại Việt thu giữ rất nhiều của cải và lương thực ở Kinh đô Luang Prabang, nhờ đó tiếp tục truy đuổi tàn quân Lan Xang đến tận Lan Na tại lưu vực sông Irrawady (giáp biên giới Miến Điện), rồi thuận đà tiến đánh luôn hai vương quốc Lan Na và Ayutthaya.
Đến năm 1479, quân Đại Việt ở Bồn Man vấp phải sự kháng cự quyết liệt của thủ lĩnh Cầm Công. Vua Lê Thánh Tông sai Lê Niệm thống lĩnh 30 vạn quân tiến đánh, quân Đại Việt vượt qua các cửa ải, đánh chiếm thành trì, đập tan toàn bộ lực lượng quân Bồn Man. Thủ lĩnh Cầm Công bỏ chạy nhưng không kịp và bị tiêu diệt. Vua Lê Thánh Tông cho em của Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên úy đại sứ để thu phục Bồn Man.
Sau các cuộc chiến này, vua Lê Thánh Tông cho sáp nhập Bồn Man khiến lãnh thổ Đại Việt được mở rộng. Các nước Đông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp (Campuchia ngày nay), Lan Xang (Lào ngày nay), Chiang Mai (Thái Lan ngày nay), Ayutthaya và Java (Indonesia ngày nay) phải thần phục (Theo “lịch sử Việt Nam” tập 3 của Viện sử học).
Năm 1485, Đại Việt đưa thêm Melaka (thuộc Malaysia ngày nay) vào danh sách chư hầu có nghĩa vụ phải cống nạp hàng năm cho Đại Việt.