Dân Việt

Công ước Luật Biển 1982 và vị thế của Việt Nam

Tiến sỹ Trần Công Trục 29/06/2021 06:30 GMT+7
Trong các ngày 21-25/6/2021, tại Trụ sở Liên Hợp Quốc (LHQ) ở New York, Hoa Kỳ, đã diễn ra Hội nghị lần thứ 31 các quốc gia thành viên Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Việt Nam là một trong những nước trong khu vực đi tiên phong triển khai thực thi nghiêm túc và hiệu quả nội dung Công ước.

Hội nghị xem xét báo cáo của các cơ quan thành lập theo Công ước như Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Ủy ban ranh giới thềm lục địa, Cơ quan quyền lực đáy đại dương và các vấn đề thủ tục, ngân sách, nhân sự của các cơ quan này. Hội nghị quyết định kéo dài nhiệm kỳ của các thành viên Ủy ban ranh giới thềm lục địa thêm một năm do tác động của đại dịch Covid-19.

Phát biểu tại Hội nghị, Đại sứ Đặng Đình Quý - Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại LHQ - đề cập những công việc mà Việt Nam đã triển khai thực hiện với vai trò là một thành viên chính thức của UNCLOS 1982.

Chúng tôi xin được cụ thể hóa các nội dung phát biểu của Đại sứ Đặng Đình Quý tại Diễn đàn chính trị, pháp lý quốc tế quan trọng này.

Quá trình xây dựng và giá trị Công ước Luật Biển 1982

Sau hơn 4 năm trù bị (từ năm 1969-1973) và 9 năm đàm phán (từ năm 1973-1982), ngày 10/12/1982 ra đời Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982.

Sau Hiến chương LHQ, Công ước Luật Biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước Luật Biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana - nước thứ 60 phê chuẩn Công ước ngày 16/11/1993). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 phụ lục, với hơn 1.000 quy phạm pháp luật, Công ước Luật Biển 1982 đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. 

Công ước Luật Biển 1982 được coi là một Hiến chương về biển và đại dương của cộng đồng quốc tế. Bởi vì Công ước không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán. Công ước Luật Biển 1982 thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển…

Công ước Luật Biển 1982 đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; chế độ pháp lý đối với biển cả và vùng - di sản chung của loài người; các quy định hàng hải và hàng không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật; vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển; quy chế hoạt động của Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Uỷ ban ranh giới ngoài thềm lục địa, Toà án Luật Biển quốc tế, Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước…

Việt Nam đã làm gì với tư cách là thành viên chính thức của Công ước Luật Biển 1982?

Việt Nam là một trong những nước trong khu vực đi tiên phong trong việc triển khai thực thi nghiêm túc và hiệu quả nội dung của Công ước Luật Biển 1982; cụ thể là:

Trong thời gian Hội nghị của LHQ về Luật Biển lần thứ 3 tiến hành thảo luận về Dự thảo nội dung Công ước, Việt Nam tham gia nghiên cứu, biên dịch tất cả các tài liệu từ không chính thức, bán chính thức cho đến khi Công ước Luật Biển 1982 được ký kết chính thức.

Công ước Luật Biển 1982 và vị thế của Việt Nam - Ảnh 2.

Tàu cá Việt Nam neo đậu tại cảng. Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)

Việt Nam là một trong những nước đầu tiên tham gia ký kết và là quốc gia thứ 61 phê chuẩn Công ước Luật Biển 1982. Trước khi Công ước được ký kết, Việt Nam đã chủ động vận dụng các nội dung đã được đưa ra thương lượng tại Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của LHQ để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, như Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12/5/1977 về các vùng biển và thềm lục địa. Đây là tuyên bố chính thức đầu tiên về biển, thềm lục địa của Chính phủ Việt Nam. Nội dung Tuyên bố hầu như phù hợp các quy định đã được Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 thảo luận, thống nhất để đưa vào nội dung của Công ước.

Việt Nam cũng ban hành các nghị định: 30-CP (29/1/1980), 31-CP (29/11/1980) quy định hoạt động tàu đánh cá, tàu thuyền qua lại trên các vùng biển của Việt Nam. Cùng thời điểm UNCLOS ra đời vào năm 1982, Việt Nam có tuyên bố về hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam ngày 12/11/1982. Như vậy, rõ ràng là ngay từ khi Công ước Luật Biển 1982 chưa ra đời, Việt Nam đã có trách nhiệm nghiên cứu, đưa ra quy định phù hợp xu thế chung của Luật Biển. 

Sau khi Công ước Luật Biển 1982 được ký kết và có hiệu lực, Việt Nam là một trong những nước trong khu vực đi tiên phong triển khai thực thi nghiêm túc và hiệu quả nội dung của  Công ước. Ví dụ Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực dịch UNCLOS 1982 ra tiếng bản xứ (ở đây là tiếng Việt); hay Việt Nam đã cho ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với UNCLOS 1982, đã căn cứ vào các nguyên tắc, giải pháp giải quyết tranh chấp do UNCLOS 1982 trù định để xúc tiến đàm phán hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa với các nước láng giềng và đã thu được những thành quả đáng khích lệ.

Đáng chú ý là cuộc đàm phán phân định ranh giới biển trong Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là cuộc đàm phán kéo dài hơn 1/4 thế kỷ, kể từ đầu những năm 1970 cho đến ngày 25/12/2000, Hiệp định về Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ mới được ký kết. Đây là một cuộc đàm phán thành công, được đánh giá là điển hình, tạo tiền lệ cho các nước nghiên cứu, học tập trong giải quyết vấn đề tranh chấp ranh giới vùng biển, thềm lục địa giữa các quốc gia ven biển có vùng biển đối diện và kế cận nhau. Bởi vì, với một tinh thần thật sự cầu thị và có trách nhiệm, Việt Nam đã chủ động thỏa thuận cùng Trung Quốc tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ bằng con đường thỏa thuận thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh, nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà cả hai bên đều có thể chấp nhận được.

Giữa Việt Nam và Malaysia cũng đã đàm phán và trong khi chưa tìm được giải pháp cuối cùng, hai bên đồng ý áp dụng giải pháp tạm thời là hợp tác cùng khai thác chung trong vùng chồng lấn 2.800km2. Đây là một điểm mới khiến nhiều nước quan tâm. Theo Công ước Luật Biển 1982, nếu như các bên đàm phán chưa đi đến thống nhất thì các bên có thể dùng giải pháp tạm thời cùng khai thác chung trên cơ sở yêu sách các bên đưa ra dựa vào tiêu chuẩn của Công ước Luật Biển 1982. Đây là tiền lệ hết sức đáng lưu ý trong việc các bên giải quyết ranh giới vùng biển và thềm lục địa. Hiện nay, đương nhiên còn một số phạm vi khác mà Việt Nam với các nước còn tiếp tục đàm phán giải quyết trên cơ sở Công ước Luật Biển 1982…

Có một sự kiện pháp lý không thể không nhắc tới, đó là việc Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Biển Việt Nam vào ngày 21/6/2012. Luật Biển Việt Nam, có hiệu lực vào đầu năm 2013, chứa đựng những quy định, quy phạm pháp luật hoàn toàn phù hợp với UNCLOS 1982. Việc thông qua Luật Biển Việt Nam là thủ tục pháp lý cần thiết của quá trình nội luật hóa UNCLOS 1982 mà bất kỳ một quốc gia thành viên nào cũng phải có nghĩa vụ thực hiện…

Công ước Luật Biển 1982 và tình hình Biển Đông

Như mọi người đã biết, về phương diện pháp lý, trong Biển Đông hiện đang tồn tại 2 loại bất đồng và tranh chấp chủ yếu: Bất đồng và tranh chấp về quyền thụ đắc lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tranh chấp về phân định ranh giới biển, thềm lục địa. 

Để giải quyết các tranh chấp này, luật pháp và thực tiễn quốc tế đã chỉ rõ những nguyên tắc pháp lý đã được vận dụng khá phổ biến, không thể có sự nhầm lẫn được. Điều đáng lưu ý ở đây là UNCLOS 1982 chỉ là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn, không phải là căn cứ để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Việt Nam đã dựa vào UNCLOS 1982 để xúc tiến đàm phán phân định ranh giới biển, thềm lục địa và đã có những thành công, có những đóng góp rất có ý nghĩa trong việc giải quyết tranh chấp ranh giới biển, thềm lục địa giữa các nước trong khu vực và quốc tế.

Đồng thời, Việt Nam cương quyết phê phán và bác bỏ yêu sách về ranh giới biển theo đường "lưỡi bò" chủ quan, phi lý, do Trung Quốc áp đặt, không dựa vào những tiêu chuẩn của UNCLOS 1982. Điều đáng quan ngại là để hiện thực hóa yêu sách "lưỡi bò" phi lý đó, Trung Quốc hiện đang triển khai nhiều hoạt động vi phạm đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia xung quanh Biển Đông. Việt Nam đang cùng các quốc gia trong khu vực và quốc tế đã cực lực phản đối các vi phạm này và kiên trì theo đuổi chủ trương giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, dựa theo đúng các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển 1982.

Ngoài ra, Việt Nam có thiện chí trong việc hợp tác bảo vệ môi trường, chống thiên tai, biến đổi khí hậu bằng nhiều hành động cụ thể trên thực tế. Đây chính là trách nhiệm của Việt Nam trong việc triển khai thực hiện UNCLOS 1982. Công tác nghiên cứu, thăm dò tài nguyên trong vùng biển thềm lục địa, phạm vi mình có chủ quyền, cũng là đóng góp quan trọng cho cộng đồng khu vực, quốc tế trong công cuộc đấu tranh bảo vệ, quản lý, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật và không sinh vật của biển và đại dương, đang trở thành cứu cánh của nhân loại trong thế kỷ này.