Cụ thể, ngoài các đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh Covid-19 (như Nghị định số 41/2020/NĐ-CP) thì Nghị định 52/CP đã quy định bổ sung đối tượng được gia hạn tiền thuế, tiền thuê đất, bao gồm: các doanh nghiệp, tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động sản xuất trong các ngành kinh tế hoạt động xuất bản; hoạt động điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và xuất bản âm nhạc;
Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên (không gia hạn đối với thuế thu nhập doanh nghiệp của dầu thô, condensate, khí thiên nhiên thu theo hiệp định, hợp đồng); sản xuất đồ uống; in, sao chép bản ghi các loại; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị); sản xuất mô tô, xe máy; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị; thoát nước và xử lý nước thải.
Thời hạn nộp thuế được gia hạn là 5 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng từ tháng 3 đến tháng 6 và quý 1, quý 2; gia hạn 4 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng tháng 7; gia hạn 3 tháng đối với số thuế giá trị gia tăng tháng 8.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động kinh doanh trong các ngành hoạt động phát thanh, truyền hình; lập trình máy vi tính, dịch vụ tư vấn và các hoạt động khác liên quan đến máy vi tính; hoạt động dịch vụ thông tin; Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai khoáng, cũng nằm trong đối tượng được gia hạn tiền thuế, tiền thuê đất.
Nghị định cũng quy định gia hạn 3 tháng đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp quý 1, quý 2 của kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2021.
Thời gian gia hạn là 3 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Ngoài ra, Nghị định quy định gia hạn 6 tháng tiền thuê đất phải nộp kỳ đầu năm 2021 và thời gian gia hạn là 6 tháng kể từ ngày 31/5.
Để được gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định 52/2021/NĐ-CP, người nộp thuế phải nộp đủ số tiền theo từng sắc thuế được gia hạn bao gồm cả các khoản nợ phát sinh trước khi được gia hạn và các khoản nợ được gia hạn theo Nghị định số 41 (theo đúng thứ tự thanh toán tiền thuế tại Điều 57 Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019) trước ngày 30/7. Bên cạnh đó, người nộp thuế tự xác định và chịu trách nhiệm về việc đề nghị gia hạn đảm bảo đúng đối tượng được gia hạn theo quy định.
Mặt khác, người nộp thuế phải gửi giấy đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp chậm nhất ngày 30/7 để được gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định 52/CP.
Về thủ tục nộp đề nghị gia hạn, người nộp thuế thuộc đối tượng được gia hạn gửi Giấy đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất lần đầu hoặc thay thế (khi phát hiện có sai sót) cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp một lần cho toàn bộ các kỳ của các sắc thuế và tiền thuê đất được gia hạn.
Với trường hợp người nộp thuế có các khoản được gia hạn thuộc Nhà nước cho thuê đất tại nhiều địa bàn khác nhau, cơ quan thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế sẽ có trách nhiệm truyền thông tin sao gửi Giấy đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho cơ quan thuế quản lý khoản thu có liên quan.
Người nộp thuế gửi Giấy đề nghị gia hạn có thể bằng phương thức điện tử, đường bưu chính hoặc nộp trực tiếp tại trụ sở cơ quan thuế.