Ngoài Đ.T.M, tham gia hành hung em T còn có 3 người khác là N.T.P (SN 2007, trú tại tổ 4, phố Tân Việt, phường Tân Dân, TP.Việt Trì); T.H.Q (SN 2008, trú tại tổ 4, phố Tân An, phường Tân Dân, TP.Việt Trì) và T.N.B.L (SN 2007, trú tại tổ 35, phố Thi Đua, phường Tiên Cát, TP.Việt Trì).
Em T sau khi bị hành hung đã bị thương nặng, phải điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ. Được biết, một vài năm gần đây, M. nổi tiếng là "dân anh chị nhí", thường xuyên gây gổ, đánh nhau tại địa phương.
Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) cho biết, sự việc có dấu hiệu tội phạm của hành vi cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng. Bởi vậy cơ quan điều tra cần vào cuộc xác minh làm rõ nguyên nhân, hành vi của các đối tượng và làm rõ hậu quả xảy ra để có căn cứ giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.
Những hình ảnh quay clip được đăng tải trên mạng xã hội cho thấy hành vi hết sức côn đồ, manh động, bất chấp pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác.
Hành vi đánh đập tàn nhẫn nạn nhân là hành vi xâm phạm đến sức khỏe, thậm chí tính mạng của nạn nhân, xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của nạn nhân. Bởi vậy cơ quan điều tra sẽ làm rõ nguyên nhân của sự việc, làm rõ hành vi vi phạm pháp luật và hậu quả xảy ra để xem xét xử lý các đối tượng vi phạm.
Theo thông tin ban đầu từ phía cơ quan chức năng, cả đối tượng thực hiện hành vi cố ý gây thương tích và nạn nhân đều là người dưới 18 tuổi.
Vì vậy, độ tuổi của đối tượng đã thực hiện hành vi gây thương tích cho nạn nhân là một yếu tố quan trọng để quyết định việc sẽ xử lý bằng biện pháp chế tài nào.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, người từ 14 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp, còn người từ đủ 16 tuổi đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sẽ được áp dụng chính sách về người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Như vậy, với đối tượng cố ý gây thương tích cho người khác đã bước sang tuổi 16 sẽ bị xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích.
Trường hợp hậu quả được xác định là rất nghiêm trọng, đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 bộ luật hình sự năm 2015, với mức phạt thấp nhất là 6 tháng tù, cao nhất là tù chung thân.
Trong vụ việc trên, cơ quan điều tra sẽ vào cuộc xác minh làm rõ các đối tượng đã thực hiện hành vi cố ý gây thương tích đối với nạn nhân, làm rõ nguyên nhân động cơ của sự việc và làm rõ hậu quả đã xảy ra đối với nạn nhân để đánh giá tính chất mức độ của hành vi, đánh giá hậu quả làm căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp có đối tượng gây thương tích cho nạn nhân đã từ đủ 16 tuổi và nạn nhân có thương tích thì dù thương tích dưới 11 % vẫn có thể xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 bộ luật hình sự năm 2015 với tình tiết là phạm tội với người dưới 16 tuổi, có tính chất côn đồ, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật, an toàn xã hội ...
Với các đối tượng không trực tiếp đánh nạn nhân nhưng gây mất an ninh trật tự nơi công cộng cũng sẽ bị xem xét xử lý về hành vi gây rối trật tự công cộng.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Điều 134 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích cụ thể như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;
h) Có tổ chức;
i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;
m) Có tính chất côn đồ;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.
4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm."