Dân Việt

Ngân hàng tăng vốn không theo kịp mức tăng trưởng của tài sản rủi ro

Quốc Hải 28/07/2021 18:39 GMT+7
Theo các chuyên gia tài chính - chứng khoán, do mới chỉ áp dụng tới Basel II; trong khi các nước trong khu vực phần lớn đã tiến đến Basel III, nên áp lực tăng vốn đang gia tăng với các ngân hàng Việt…

Tại buổi Tư vấn đầu tư chủ đề "Ngành Ngân hàng – Điểm sáng từ câu chuyện tăng vốn" do SSI tổ chức hôm nay, ông Nguyễn Hưng - Tổng Giám đốc TPBank, nhận định, các ngân hàng lúc nào cũng ở trong xu thế bắt buộc phải tăng vốn để có cơ hội được tăng tín dụng và tăng tổng tài sản. Bởi, việc tăng vốn sẽ ảnh hưởng đến chuyện được ưu tiên tăng trưởng tín dụng nên các ngân hàng cần tăng vốn càng sớm càng tốt.

Việc tăng vốn của ngân hàng hiện tại đang không theo kịp mức độ tăng trưởng của tài sản rủi ro - Ảnh 1.

Ông Nguyễn Hưng -Tổng Giám đốc TPBank và bà Hoàng Việt Phương - Giám đốc Trung tâm Phân tích và Tư vấn Đầu tư, Chứng khoán SSI tại buổi tư vấn đầu tư (Ảnh chụp màn hình: Quốc Hải)

"Theo thống kê của chúng tôi, phần lớn các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng lớn, mức hệ số an toàn vốn (CAR) chỉ nằm trong khoảng 9% đối với ngân hàng cổ phần. Đối với ngân hàng vốn Nhà nước thì hệ số này còn thấp hơn" ông Hưng nói.

Vì sao ngân hàng ồ ạt tăng vốn?

Theo ông Hưng, mỗi khi các ngân hàng muốn tăng tài sản có rủi ro như dư nợ hoặc danh mục đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp, đầu tư vào các danh mục có rủi ro khác… thì lượng vốn tự có cũng đòi hỏi phải tăng lên tương ứng và để duy trì CAR ở mức 8% (mức tối thiểu) thì vẫn có nhiều ngân hàng chưa đạt yêu cầu.

Cụ thể, một ngân hàng để được xếp hạng A theo quy định của NHNN và theo chuẩn CAMELS thì phải duy trì hệ số CAR là 10% cho vốn cấp 1 và 12% cho vốn cấp 2, nhưng hiện nhiều ngân hàng không đáp ứng được chuẩn này.

Trong khi đó, nếu tiến tới Basel III, tỷ lệ vốn còn yêu cầu cao hơn (tăng thêm 2,5% so với trước) và những yêu cầu về vốn cấp 1 cũng nâng cao hơn.

Việc tăng vốn của ngân hàng hiện tại đang không theo kịp mức độ tăng trưởng của tài sản rủi ro - Ảnh 2.

Cổ phiếu ngành ngân hàng được đánh giá vẫn còn dư địa tăng trưởng (Ảnh: HDBank)

Về tăng trưởng tín dụng, ông Hưng cho biết hiện nay room tín dụng không dồi dào, NHNN đề ra tăng trưởng tín dụng toàn ngành 12% và đang kiểm soát chặt chẽ.

"Tùy ngân hàng, mức tăng trưởng tín dụng sẽ khác nhau. Với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng hiện tại, dù chịu áp lực dịch bệnh nhưng rõ ràng các ngân hàng vẫn cho rằng còn thiếu room tăng trưởng tín dụng" - ông Hưng nói thêm.

Lợi nhuận ngành ngân hàng sẽ giảm trong quý 3 và phục trong quý 4

"Thực tế, năm nay do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nếu tính đúng nhóm nợ, thì những khoản nợ này đáng lẽ ra đã trở thành nợ xấu, thế nhưng hiện nay theo Thông tư 03 thì vẫn đang được tính theo nhóm nợ bình thường, nhưng ngân hàng phải làm sao để trích đủ dự phòng cho phần này. Do đó, các ngân hàng không nên quá lạc quan về kế hoạch lợi nhuận.

Việc gia hạn, cơ cấu lại nợ cho khách sẽ làm giảm doanh thu của ngân hàng, nhưng không lớn, có quyền kỳ vọng quý 3 sẽ giảm lợi nhuận hơn quý 2 trước khi phục hồi trở lại trong quý 4".

Ông Nguyễn Hưng - Tổng Giám đốc TPBank

Đồng quan điểm, bà Hoàng Việt Phương - Giám đốc Trung tâm Phân tích và Tư vấn Đầu tư, Chứng khoán SSI - cũng nhận định, áp lực tăng vốn đang gia tăng mạnh mẽ khi ngân hàng Việt mới chỉ áp dụng đến Basel II trong khi các nước trong khu vực phần lớn đã tiến đến Basel III.

"Hiện nay, việc tăng vốn chủ sở hữu của nhiều ngân hàng hiện không theo kịp mức độ tăng trưởng của tài sản rủi ro. Vì thế, tăng vốn là một thách thức lớn mà các ngân hàng Việt cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng trong thời gian tới" - bà Phương nói.

Cổ phiếu ngân hàng có còn dư địa tăng trưởng

Theo chia sẻ của Tổng Giám đốc TPBank Nguyễn Hưng, dù dịch bệnh đang ảnh hưởng mạnh trong thời gian này (tháng 7- tháng 8) nên có thể sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận trong quý 3 của các ngân hàng nhưng  sẽ phục hồi lại trong quý 4, nếu dịch bệnh có thể lui bớt trong tháng 7 tháng 8.

Do đó, nhà đầu tư có thể kỳ vọng vào khả năng sinh lời thông qua đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng vẫn còn cao hơn rất nhiều so với các kênh đầu tư khác.

"Để lựa chọn mã cổ phiếu ngân hàng phù hợp, có tiềm năng, nhà đầu tư có thể quan sát 2 chỉ số P/E và P/B để quyết định tương đối nên đầu tư cổ phiếu ngân hàng nào. Ngoài ra, nhà đầu tư có thể chú ý thêm chất lượng tài sản của ngân hàng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu, cơ cấu dòng tiền vốn rẻ thông qua tỷ lệ CASA, danh mục cho vay của ngân hàng đó như thế nào, có chảy vào các ngành nhạy cảm hay không,…" - ông Hưng khuyến nghị.

Còn theo bà Hoàng Việt Phương: Nhà đầu tư khi lựa chọn cổ phiếu ngân hàng có thể cân nhắc đến các chỉ số quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng gồm: ROE (tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu), CIR (tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng thu nhập) và NIM (biên lãi ròng).  Ngoài ra, cũng phải lưu ý đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng muốn đầu tư.

"Trong những chỉ số này, quan trọng nhất là ROE, chỉ số này càng cao càng tốt. Trước đây, trong giai đoạn 2012-2016, tỷ lệ ROE của các ngân hàng chỉ khoảng 10,5-12% nhưng hiện nay đã đạt gần 20%, thậm chí cá biệt có ngân hàng đạt trên 20%" - bà Phương nói.