Đặng Xuân Bảng sinh năm Mậu Tý (1828) tại xã Hành Thiện, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định). Đặng Xuân Bảng có diện mạo khôi ngô tuấn tú, trán cao, mắt sáng, tiếng nói sang sảng. Từ nhỏ, ông chỉ theo học cha là Đặng Xuân Hòe. Năm 1850, mới 23 tuổi ông đã đỗ cử nhân, được giữ chức Giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương).
Sau khi thi đỗ Tiến sĩ vào năm 29 tuổi, Đặng Xuân Bảng trải qua các chức quyền Tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa), Giám sát ngự sử ở Nội các, Chưởng ấn ở Lại khoa, Án sát Quảng Yên, Bố chính Tuyên Quang, Bố chính Thanh Hóa, Bố chính Hà Nội, Bố chính Sơn Tây. Năm 1870 ông được phong Tuần phủ Hưng Yên, tháng 6/1872 nhận chức Tuần phủ Hải Dương, quyền Hộ Tổng đốc.
Khi đó thực dân Pháp đã ổn định xong bộ máy cai trị ở Lục tỉnh Nam Kỳ, ông phán đoán quân Pháp sẽ đánh chiếm Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Để bảo vệ đất nước, Đặng Xuân Bảng dâng nhiều tờ sớ biểu lên triều đình tâu bày về tình hình tài chính thiếu hụt, hiện trạng quân đội yếu kém cùng các biện pháp khắc phục.
Ông cũng kiến nghị với triều đình mở cửa sông Cấm thành cảng biển để buôn bán với nước ngoài, xuất hàng nông sản, thủ công nhập máy móc, tàu thuyền hơi nước, vũ khí của châu Âu về. Ông cũng đề cập đến việc xây dựng lực lượng bảo vệ, phòng thủ bờ biển, hải đảo và biên giới. Song Tự Đức cùng triều đình bảo thủ không chấp nhận.
Cuối năm 1871, quân Pháp nhận được viện trợ và vũ khí từ Pháp gửi sang, cho tàu chiến xâm phạm hải phận Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Trước tình hình đó, Tuần phủ Đặng Xuân Bảng thương nghị với các quan. Mọi người đều xin đánh.
Song không thể làm trái lệnh của triều đình mà chỉ phái người theo dõi các hoạt động của quân Pháp, ngăn cản không cho các giáo sĩ Pháp, Tây Ban Nha, giáo dân tiếp xúc với bọn Dupuis. Đặng Xuân Bảng cũng cho tu sửa thành trì, đặt thêm súng thần công trên thành, ra lệnh cấm trại, không cho lính ra ngoài mà phải sẵn sàng chiến đấu.
Những hành động ngang ngược của Jean Dupuis và Francis Garnier khiến cho Tuần phủ Đặng Xuân Bảng và Án sát Nguyễn Đại không khỏi nghi ngờ dã tâm của giặc Pháp đối với Bắc Kỳ, song không dám trái lệnh của triều đình Huế.
Ngày 15/10 năm Quý Dậu (4/12/1873), quân Pháp đi tàu chiến đến đánh thành Hải Dương. Thoạt đầu chúng uy hiếp bằng cách mời quan tỉnh xuống tàu của chúng để thương thuyết. Tuần phủ Đặng Xuân Bảng và các quan thừa biết đây là thủ đoạn lừa bịp để bắt sống những người chỉ huy giữ thành nên Đặng Xuân Bảng trả lời: "Chưa có lệnh của triều đình nên không hành đồng tùy tiện".
Không lừa được Đặng Xuân Bảng và đồng sự của ông, quân Pháp bắn đại bác dữ dội vào thành. Đặng Xuân Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan chống cự kiên quyết, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc. Song thế lực quân ta yếu dần, nguyên nhân chính là: "Pháo thần công và súng kíp nhỏ bị trọng pháo đặt trên tàu chiến đè bẹp".
Biết không giữ nổi thành, Đặng Xuân Bảng tổ chức phản công quyết liệt rồi rút lui về Mao Điển để bảo toàn lực lượng. Do triều đình có nhận xét thành Hải Dương "mất trong thế lấy lại", nên sau khi mất thành, triều đình triệu ông về Huế để chờ xét xử trách nhiệm. Song xét Đặng Xuân Bảng có phòng bị không sơ xuất, quyết chiến đấu giữ thành, rút lui bảo toàn lực lượng, nên ông không bị khiển trách. Tuy vậy đến năm 1876 , Tự Đức điều ông về Hưng Hóa chiêu mộ phu thành lập đồn điền để đới công chuộc tội.
Từ năm 1878, ông nhận được lệnh về triều nhận chức Đốc học và công việc tâm huyết của ông từ khi bước vào chốn quan trường. Năm 1888 triều đình điều ông về kinh giao cho chức vụ cao hơn, song ông đều tìm được lý do xin ở lại làm đốc học và triều đình đã chấp nhận.
Năm 1888, thực dân Pháp đã cơ bản đàn áp được phong trào Cần vương, thực hiện bóc lột kinh tế và chính sách ngu dân về văn hóa, nên ông xin nghỉ hưu ở tuổi 61.
Đặng Xuân Bảng về hưu, song với kinh nghiệm 2 năm mở đồn điền, ông đã tổ chức nhân dân khai hoang lập ấp Tả Hành, nay thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Lịch sử làng Hành Thiện còn ghi nhận ông đã gián tiếp giúp nhiều hộ dân từ nghèo trở thành giàu có.
Làm quan to, có danh vọng, song ông rất quan tâm đến việc sửa sang, trùng tu, bảo tiền, tôn lạo các di tích như chùa, đền Văn Xương, Văn Chỉ. Ông còn xây dựng đường làng bằng đá phiến.
Đặng Xuân Bảng về hưu song ông vẫn kiên trì thực hiện sự nghiệp giáo dục bằng hành động mở trường dạy học, viết sách. Ông đào lạo được nhiều cử nhân Hán học có tài, có đức. Tiêu biểu cho lớp người đó là Vũ Tuân, người Hải Dương, đỗ phó bảng năm 1901. Để chấn hưng việc học, ông làm Tiên chỉ hội Tư văn làng và hội Tư văn huyện, thường tổ chức các buổi bình thơ, văn trong đó có thơ văn yêu nước của trường Đông Kinh nghĩa thục.
Chỉ trong 12 năm nghỉ hưu, Đặng Xuân Bảng đã viết tới 20 cuốn sách trong các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ học, giáo dục, địa lý, địa chí, văn hóa ứng xử, tức đạo làm người. Thí dụ về Lịch sử có các cuốn sử tiêu biểu như Sử học bi khảo, Việt sử cương mạc toát yếu. Đặng Xuân Bảng có quan hệ mới mẻ khi nhìn nhận đánh giá một số vấn đề lịch sử. Ông là người đầu tiên đã khẳng định vị trí không thể phủ định được của triều Tây Sơn trong lịch sử. Ông viết về triều Tây Sơn như sau:
"Bên trong dẹp giặc cướp, bên ngoài đánh đuổi quân Thanh, khiến cho núi sông Hồng Lạc vẫn vững vàng như cũ. Huống chi lúc ấy, nhà Lê đã mất, triều Nguyễn ta chưa lên; sự truyền nối các đời Đinh, Lý, Trần, Lê đối với đất Bắc Kỳ trong 18 năm ấy nếu không thuộc về Tây Sơn thì còn thuộc về ai nữa" (Việt sử cương mạc toát yếu ).
Đặng Xuân Bảng có quan niệm nhìn nhận về công nghiệp, thủ công nghiệp, nêu cao vai trò của công nghiệp thủ công, buôn bán là điểm tiến bộ. Ông viết: "Ngày trước, phần công nghệ chỉ có đám hạ lưu làm, còn như bậc thượng lưu, trung lưu không mấy người nghĩ tới. Vì triều đình chỉ chú trọng vào khoa cử, khiến cho những người tài trí, thông minh cứ chăm chú miệt mài vào cuộc thi cử đó, đến nỗi già đời không có ích gì cho quốc dân. Do đó các nguồn lợi lớn về công nghệ như khai hoang đều rơi vào tay người Hoa cả".
Ông là người ham thích đọc sách, đến già cũng không biết mỏi, đọc cả các sách thiên văn, địa lý, tính mạng (số tướng) y bốc (bói toán), lục nhâm, thái ất, độn toán thích nhiều về thuyết "lập thân hành kỳ". Ông thích bài nói và việc làm của cổ nhân, sự việc thiện ác, báo ứng nhất là sự tích các danh vật nước ta, và có đọc binh thư, binh pháp cổ.
Ông thường nói: người nước ta chỉ học Bắc sử, không học quốc sử nhiều, cho nên các sự việc của nước ta về các mặt sơn xuyên (núi sông), phong tục (bờ cõi), quan danh (tên quan) chế độ... tuy các bậc lão thành học nhiều cũng không biết hết.
Do đó, ông rộng khảo các sách và làm các bộ sách: Nhân sự kim giám thư, (khoảng năm 1857-1858), Nam phương danh vật bi khảo, Độc sử bi khảo. Khi làm Tri phủ Yên Bình (1861) có viết bài "Tuyên Quang phú" là một tài liệu dân tộc học lịch sử rất quý. Tương truyền ông còn có bộ "Thiệu đình Việt sử" nhưng nay chưa tìm thấy.
Đặng Xuân Bảng là người giầu tính dân tộc, làm nhiều sách về Việt Nam, nghiên cứu nhiều về Việt Nam như các sách Độc sử bị khảo, Nam phương danh vật bị khảo… Về Văn hóa, ông có Như tuyền thi tập (thơ chữ Hán), Nam phương danh vật bi khảo, Huấn tục quốc âm ca (những bài ca Nôm do Đãng Xuân Bảng san bổ, nhuận sắc và in), Thành tổ hạnh thực diễn âm (thơ Nôm về sự tích Thiền sư Dương Không Lộ, Nhị Độ mai (dịch ra Nôm từ truyện Nhị độ mai của Trung Quốc và nhiều sách khác.
Đặng Xuân Bảng là người đầu tiên ở Bắc Kỳ thiết lập được một thư viện tư nhân mang tên thư viện Hy Long với số lượng sách "chứa đầy sáu gian nhà ngói". Ông còn tổ chức in sách, bán sách tại nhà. Đây là thư viện lớn nhất Bắc Kỳ thời đó.
Ông mất năm 1910, thọ 83 tuổi. Trong đám tang ông, có trên 300 học trò đến chịu tang. Nhân dân ấp Tả Hành chịu ơn ông tổ chức khai hoang lập ấp đã tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình.