Bạn đọc hỏi: Bác tôi sinh ngày 10.4.1966, có 25 năm công tác tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn (nhưng phụ cấp khu vực là 0.5).
Theo tìm hiểu quy định tại Điểm b, Khoản 1, điều 5 NĐ 135/2020/NĐ-CP có quy định: "b) Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021" thì được tính là căn cứ để tính nghỉ hưu trước tuổi.
Vậy tôi muốn hỏi trường hợp của bác tôi với điều kiện như trên có được nghỉ hưu trước tuổi không?
Về vấn đề này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho biết, theo quy định hiện hành tại Điều 169, Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18.11.2020 của Chính phủ, kể từ ngày 1.1.2021 tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028 và cứ mỗi năm tăng thêm 04 tháng đối với lao động nữ cho đến đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Tại Điểm b Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 135/2020/NĐ-CP nêu trên quy định người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường nếu có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Danh mục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ xác định trường hợp có thể nghỉ hưu trước tuổi được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 19/2021/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2021.
Theo đó, thời gian người lao động làm việc trước ngày 1.1.2021 được căn cứ theo nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp bác của bạn làm việc tại nơi có phụ cấp khu vực 0,5 thì chưa đủ điều kiện để làm cơ sở xác định bác của bạn nghỉ hưu trước tuổi.