Các nỗ lực lớn đã được thực hiện để làm cho vũ khí hạt nhân có thể được cất giấu gần mục tiêu tấn công hơn mà không bị phát hiện…
Trong khi Liên Xô đầu tư chế tạo các đoàn tàu bọc thép có thể vận chuyển tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) khổng lồ của họ quanh Siberia, Mỹ cũng tìm kiếm những giải pháp mới bố trí vũ khí hạt nhân cả ở nước ngoài. Iceworm là mật danh của một dự án tối mật núp dưới tên “Camp Century” của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh nhằm triển khai mạng lưới bệ phóng ICBM tầm trung di động dưới lớp băng Greenland (Đan Mạch).
Khởi công vào năm 1958, Dự án Iceworm nhằm xây dựng một hệ thống đường hầm dài 4.000 km trong dải băng Greenland để triển khai khoảng 600 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa nhằm vào các mục tiêu trên lãnh thổ Liên Xô. Quân đội Mỹ đã xây dựng một loạt đường hầm dưới lớp băng, sử dụng các kết cấu thép để tăng cường khả năng chịu lực và giữ chúng ở vị trí cố định.
Giữ bí mật với chính phủ Đan Mạch, Bộ Quốc phòng Mỹ giải thích Camp Century nhằm thử nghiệm các kỹ thuật xây dựng khác nhau trong điều kiện Bắc Cực, khảo sát các vấn đề thực tế với một lò phản ứng hạt nhân bán di động, cũng như hỗ trợ khoa học. Dự án đã được thông báo công khai, và thậm chí còn được đưa tin trên các tờ báo của Đan Mạch và tạp chí The Saturday Evening Post vào năm 1960.
Nằm cách Bắc Cực không xa, nhiệt độ xung quanh khu vực Camp Century (nằm ở độ cao 2.000 m) cách căn cứ quân sự Thule của Mỹ 240 km, thường ở mức -23 độ C, với nhiều khi lạnh tới -70 độ C; lượng tuyết trung bình tích lũy trong khu vực vào thời điểm đó là trên 1 m mỗi năm, gió giật với tốc độ 115 km/h. Do đó, việc xây dựng cơ sở quân sự trên bề mặt của tảng băng phía Bắc Greenland là điều không thể.
Bắt đầu từ năm 1959, sử dụng những cỗ máy xới đất khổng lồ do Thụy Sĩ chế tạo, Quân đoàn Công binh Mỹ bắt đầu đào những đường hầm bên dưới lớp băng phía bắc Greenland bằng phương pháp được gọi là “cắt và đắp”. Quân đội Mỹ đã tạo ra những đường hầm hiệu quả bên dưới mái vòm bằng thép và lớp băng tuyết, có thể được sử dụng để làm văn phòng, nhà ở và thậm chí là các hoạt động giải trí...
Mục đích thực sự đằng sau các hoạt động này là thiết lập một hệ thống đường hầm khổng lồ có thiết kế đặc biệt dưới băng, có khả năng hỗ trợ việc tàng trữ, vận chuyển và phóng tên lửa đạn đạo hạt nhân. Bằng cách tận dụng các đường hầm dưới lớp băng cho mục đích này, Mỹ có thể phóng hàng loạt vũ khí hạt nhân vào Liên Xô, đồng thời di chuyển tên lửa định kỳ thường xuyên khiến Liên Xô gần như không thể phòng thủ hoặc tấn công đúng vị trí đặt tên lửa.
Thực hiện dự án, 21 đường hầm với tổng chiều dài 4.000 m cùng một bệnh viện, một cửa hàng, một nhà hát, một nhà thờ và các cơ sở khác đã được tạo ra dưới lớp băng. Tổng số nhân viên tham gia xây dựng và sống dưới lớp băng khoảng 200 người. Từ năm 1960 đến 1963, việc cung cấp điện được thực hiện thông qua lò phản ứng hạt nhân di động đầu tiên "PM-2A" do Alco thiết kế cho Quân đội Mỹ; nước được lấy trực tiếp từ các sông băng và được kiểm tra vi trùng dịch hạch.
Theo các tài liệu do Đan Mạch công bố năm 1997, mạng lưới tên lửa "Iceworm" đã được phác thảo trong một báo cáo năm 1960 có tiêu đề "Giá trị chiến lược của Greenland Icecap" của Quân đội Mỹ. Nếu được thực hiện đầy đủ, dự án sẽ có diện tích 130.000 km2, gấp gần 3 lần diện tích Đan Mạch, cùng khoảng 11.000 nhân viên quân sự. Hàng nghìn đường hầm sẽ được tạo ra mỗi năm để sau 5 năm có hàng nghìn vị trí khai hỏa, và có thể luân chuyển vài trăm tên lửa.
Các tầng bố trí tổ hợp phóng nằm dưới bề mặt 8,5 m, với các bệ phóng tên lửa thậm chí còn sâu hơn và các trung tâm phóng tên lửa sẽ cách nhau 6,4 km. Giới chức Mỹ dự định triển khai một phiên bản rút gọn hai tầng của tên lửa Minuteman của Không quân Mỹ, biến thể mà Lục quân gọi là Người băng (Iceman). Những thông tin này được giữ bí mật tuyệt đối với chính phủ Đan Mạch.
Điều mà người dân Đan Mạch không biết vào thời điểm đó là kể từ năm 1961, các máy bay ném bom B-52 trang bị vũ khí hạt nhân đã liên tục bay vòng quanh Căn cứ Không quân Thule. Không chỉ vậy, khoảng 50 vũ khí hạt nhân cũng đã được cất giữ tại căn cứ từ năm 1958 đến năm 1965. Vụ hạ cánh của một pháo đài bay B-52 chứa đầy vũ khí hạt nhân của Mỹ ở Greenland vào năm 1968 đã đưa mọi thứ ra ánh sáng!
Ngoài dự kiến, ba năm sau khi dự án bắt đầu, băng tan, các đường hầm nứt nẻ, dịch chuyển, từ từ biến dạng theo thời gian, và không còn an toàn để sử dụng. Sự di chuyển lan rộng này khiến các đường hầm và hào bị thu hẹp, do tường của chúng biến dạng và phình ra, cuối cùng dẫn đến sập trần. Giữa năm 1962, trần của phòng điều hành Camp Century đã bị tụt và phải được nâng lên 1,5 m.
Sau kế hoạch làm nguội lò phản ứng PM-2A để bảo trì vào cuối tháng 7/1963, Mỹ quyết định vận hành Camp Century như một cơ sở chỉ dành cho mùa hè và không kích hoạt lại lò phản ứng. Căn cứ tiếp tục hoạt động vào năm 1964 sử dụng máy phát điện diesel dự phòng, lò phản ứng di động bị dỡ bỏ vào mùa hè năm đó. Căn cứ bị bỏ hoang hoàn toàn vào năm 1966, được niêm phong và giấu kín với công chúng.
Các mẫu lõi băng do các nhà địa chất làm việc tại Camp Century lấy đã cho thấy sông băng di chuyển nhanh hơn nhiều so với dự tính và sẽ phá hủy các đường hầm cũng như các trạm phóng dự kiến trong khoảng hai năm. Rõ ràng đây không phải là nơi để con người sinh sống, chưa nói đến việc lưu trữ vũ khí hạt nhân. Thông tin về dự án được tiết lộ trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến 1997, khi Quốc hội Đan Mạch ủy quyền cho Viện Chính sách Đối ngoại Đan Mạch (DUPI) nghiên cứu lịch sử việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Greenland liên quan đến bê bối về vụ rơi máy bay ở căn cứ Thule.
Dự án đã tạo ra thông tin khoa học có giá trị và cung cấp cho các nhà khoa học một số lõi băng đầu tiên, số liệu khoa học vẫn được các nhà khí hậu học sử dụng cho đến ngày nay. Lớp băng lưu cữu cho phép các nhà khoa học nghiên cứu hàng nghìn năm lịch sử khí hậu. Họ cũng có thể quay ngược thời gian bằng cách quan sát vi trùng được bảo quản trong nước tan chảy từ các sông băng.
Cơ sở hạ tầng và chất thải của Iceworm đã bị bỏ hoang được dự tính sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn bởi tuyết rơi không ngừng nghỉ. Nhưng một nghiên cứu năm 2016 cho thấy, nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, phần băng bao phủ Camp Century sẽ bắt đầu tan chảy vào năm 2100. Khi băng tan, chất thải sinh học, hóa học (bao gồm 200.000 lít dầu diesel, hóa chất) và chất thải phóng xạ còn lại sẽ tái xâm nhập vào môi trường và có khả năng phá vỡ các hệ sinh thái lân cận - hậu quả hoàn toàn không lường trước của dự án tối mật thời Chiến tranh Lạnh.