Thời xưa, trinh tiết giống như một thước đo đạo đức của phụ nữ và coi đó là phương pháp chắc chắn nhất để bảo đảm quyền làm cha của đàn ông. Một người phụ nữ nếu không giữ được trinh tiết trước khi lấy chồng sẽ bị coi là hư hỏng và gần như không còn đường sống.
Chính vì vậy việc kiểm tra một người phụ nữ có còn “trong trắng” hay không rất quan trọng và những người có nhu cầu tìm cách lấy lại hay làm giả màng trinh cũng không hề ít. Tuy nhiên tất cả những phương pháp này dưới góc nhìn của các chuyên gia y học đều là sự vô lý.
Trong sách y học trung cổ có ghi lại một quan điểm về trinh nữ rằng họ được ban cho một sức mạnh ma thuật, có thể thuần hóa động vật hoang dã, cầm được nước trong tay và kiểm soát ham muốn đi tiểu.
Vì vậy, để xem một thiếu nữ còn “trong trắng” hay không, các sách y khoa xưa có ghi lại rằng cho một cô gái uống lượng lớn thuốc lợi tiểu. Nếu cô ấy có thể nhịn tiểu được lâu thì chứng tỏ đó là một trinh nữ nhưng nếukhông thể chịu được việc nhịn đi vệ sinh chứng tỏ người con gái đó đã từng quan hệ.
Theo các chuyên gia y học hiện đại, việc phụ nữ còn trong trắng và nhịn tiểu không hề liên quan tới nhau. Thậm chí còn cảnh báo về tác hại của việc nhịn tiểu quá lâu có thể dẫn tới nhiễm trùng tiết niệu, nguy cơ cao bị sỏi thận, viêm bàng quang thậm chí là ung thư.
Trong cuốn sách The Untouched History của tác giả Hanne Blank đã kể lại một trong những cách được người xưa coi là tốt nhất để xác định sự “trong sáng” của người phụ nữ là khám ngực. Ngực nhỏ, núm vú nhỏ và màu hồng chứng tỏ một cô gái còn trinh trắng.
Quan niệm này cũng rất thông dụng ở Trung Quốc cổ đại, đó là ngực phụ nữ còn trong trắng thường căng và có độ đàn hồi tốt, còn ngực người đã có chồng hay từng quan hệ thì mềm và chảy sệ.
Nguyên nhân là bởi theo quan sát của người xưa, phụ nữ khi mang thai ngực thường lớn hơn nên họ suy luận rằng cô gái chưa từng quan hệ ngực sẽ nhỏ. Niềm tin này càng được củng cố thêm bởi lý thuyết tinh trùng sau khi xâm nhập vào âm đạo của phụ nữ nó sẽ di chuyển trong cơ thể của cô ấy và đi tới ngực khiến chúng lớn và chảy sệ.
Tuy nhiên, việc kiểm tra trinh tiết bằng xem nhũ hoa hay ngực không hẳn là chính xác, vì kích thước và màu sắc nhũ hoa của mỗi phụ nữ tùy thuộc vào sắc tố da của mỗi người. Trong thực tế, chỉ khi người phụ nữ mang thai hoặc uống thuốc điều hòa kinh nguyệt thì nội tiết tố thay đổi mới làm màu sắc núm vú và quầng vú thay đổi theo chứ không phải do quan hệ tình dục mà dẫn đến sự thay đổi đó.
Đây chính là phương pháp “nghiệm thân” được lưu truyền và có nguồn gốc từ thời nhà Hán. Các vị hoàng đế Trung Hoa cổ đại có hàng trăm, hàng nghìn thê thiếp nên để quản lý cũng như ngăn cản các cung tần mỹ nữ ngoại tình đã tìm tới phương pháp thủ cung sa.
Thủ cung sa là một vết son đỏ được dùng để chấm lên tay của phụ nữ nhằm mục đích đánh dấu trinh tiết của họ. Tương truyền, vết đỏ này sẽ không bao giờ biến mất nếu như nữ nhân đó còn trong trắng.
Tên gọi thủ cung sa bắt nguồn từ chính nguyên liệu làm ra nó, đó là thạch sùng cái. Những con thạch sùng này sẽ được cho ăn chu sa, lâu ngày thân thể biến thành màu đỏ. Trong mùa sinh sản của nó, thạch sùng cáisẽ bị bắt, phơi khô, xay nhuyễn, tạo thành một loại bột phấn.
Loại bột phấn này sẽ được tô lên tay hoặc cơ thể của người con gái dùng để “nghiệm thân”. Nếu sau đó người con gái này có quan hệ nam nữ, thủ cung sa sẽ lập tức phai màu.
Theo khoa học hiện đại, thạch sùng cái chứa nhiều estrogen trong mùa sinh sản, khi gặp androgen, estrogen và androgen sẽ trung hòa với nhau và làm biến mất vết đỏ. Tuy nhiên sử dụng nó để kiểm tra xem phụ nữ còn trinh trắng hay không chưa có đủ bằng chứng khoa học xác minh.
Theo Đông y, dược tính của thạch sùng là mặn, hàn công hiệu chủ yếu là hoạt lạc, tán kết, kháng ung thư. Dung dịch nước thạch sùng có tác dụng rõ rệt đối với việc khống chế hô hấp của các tế bào ung thư. Ngoài ra nó còn chứa vitamin F, mang theo những hoạt tính chống ung thư. Còn chu sa thì có dược tính là ngọt, mát, công hiệu chủ yếu là an thần, định kinh, sáng mắt và giải độc. Xét theo dược tính thì thủ cung sa chỉ có thể là một thứ thuốc hỗ trợ điều trị một số bệnh thông thường như bệnh tích ở trẻ, bệnh tê chân tay,… Nói cách khác, thủ cung sa hoàn toàn không hề liên quantới trinh tiết của phụ nữ.
Tóm lại, các phương pháp kiểm tra cơ thể của người xưa hay việc màng trinh còn hay mất không nói lên nhiều về trải nghiệm tình dục của người phụ nữ.Nhiều phụ nữ có thể bị mất màng trinh thông qua các hoạt động thể chất như đạp xe, trong khi những người khác vẫn giữ được màng trinh ngay cả khi đã quan hệ. Cơ thể của mỗi người phụ nữ là khác nhau, không nên chỉ dựa vào sự trong trắng để đánh giá một người.