Chùa Một Cột được xem là một trong những biểu tượng tâm linh của Hà Nội. Đây là ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Lý và trải qua bao thăng trầm vẫn giữ nét cổ kính của thời gian. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết về hoàn cảnh ra đời của ngôi chùa nổi tiếng này. Vì thế, khi vở diễn Huyền tích Chùa Một Cột (tác giả Lê Thế Song; đạo diễn NSƯT Bùi Như Lai) của Sân khấu Lệ Ngọc ra mắt đã thu hút được sự chú ý của đông đảo khán giả.
Vua Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) là hoàng đế thứ hai của nhà Lý và trị vì hơn hai mươi năm trong giai đoạn thịnh trị của triều đại này. Thủa nhỏ, vị hoàng tử có vẻ bề ngoài đẹp đẽ, chính khí, lại sớm bộc lộ khí chất của quân vương, nên vua Lý Thái Tổ đã lập ông làm Đông Cung Thái Tử. Trải qua "Loạn tam vương" thì năm 1028, Lý Thái Tông lên ngôi và trở thành một vị vua nhân từ, tài giỏi, góp công lớn cho đất nước khi dẹp loạn được khởi nên từ các nước lân bang như Chiêm Thành và Ai Lao.
Ông nổi tiếng là vị vua nhân từ, yêu thương con dân, là vị vua đầu tiên mở quốc khố "xuống chiếu cho lấy tiền lụa ở trong kho lớn ban cho thiên hạ". Năm 1042, ông ban hành bộ Hình thư, giúp cho "việc xử án trở nên rõ ràng", đây cũng được xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Đặc biệt, vua cũng là người quyết định xây dựng chùa Một Cột.
Câu chuyện về ngôi chùa không có nhiều tư liệu lịch sử nhưng tác giả đã hư cấu một cách hợp lý để có một cốt truyện kịch hấp dẫn, đủ yếu tố khơi gợi tò mò, cuốn hút người xem. Đó là sự hấp dẫn của những màn "cung đấu", là âm mưu của những kẻ ngoại bang cố tình xâm phạm với ý đồ phong ấn, hủy diệt long mạch phát triển của đất nước. Chúng nham hiểm, độc ác khi lợi dụng tâm lý của Hoàng hậu Thiên Cảm đang bị mờ mắt vì ghen tuông, vì muốn độc chiếm ngôi vị.
Xung đột lớn nhất, mâu thuẫn chủ yếu của vở là xung đột giữa âm mưu của giặc muốn cắm xuống huyệt mạch quốc gia một chiếc cột lớn để phá hủy long mạch đang thịnh của chúng ta và vô nhân đạo hơn là kích động để Hoàng hậu Thiên Cảm chấp nhận hiến tế những thanh niên trai tráng – những biểu tượng cho sức mạnh của nước Đại Việt.
Nhưng với một vị vua như Lý Thái Tông, người được ghi chép trong Đại Việt Sử ký toàn thư "là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông" thì âm mưu đó hoàn toàn không thể thực hiện được.
Nhà vua đã biến nguy cơ thành cơ hội, biến âm mưu đen tối của giặc thành điểm sáng của Long thành khi trên chiếc cột đó, cho xây dựng một ngôi chùa mang hình dáng bông hoa sen như những gì trong giấc mơ thường thấy của mình… Tác phẩm với những tình tiết sâu sắc, giàu tính nhân đạo mong muốn tư tưởng "Lấy Đức trị Nhân"- thông điệp bao trùm của vở diễn được tỏa sáng và vẫn còn vẹn toàn giá trị đến thời nay.
Chính "Đức trị" mà cốt lõi là tấm lòng thương dân là một trong những chìa khoá mở ra một thời đại Lý triều hưng thịnh. Vở kịch chính là dịp để khán giả lắng đọng tâm hồn để nhìn lại và nâng niu những giá trị nhân văn ấy. Tìm tòi để khẳng định, sử Việt rất hấp dẫn, còn rất nhiều khoảng trống để khai thác, để thực hiện mong muốn của Bác Hồ "dân ta phải biết sử ta"- sân khấu Lệ Ngọc đã làm được điều đó qua tác phẩm.
Lựa chọn một cách kể chuyện mộc mạc, dễ hiểu, dễ tiếp nhận mà không quá đơn giản, đạo diễn Như Lai đã sử dụng những mảng miếng, sự ước lệ thích đáng cùng xử lý ánh sáng thích hợp đã đem tới cảm nhận tốt cho cốt truyện. Tính cách các nhân vật rõ nét, cốt truyện mạch lạc, thiết kế sân khấu linh hoạt, âm thanh ánh sáng có sự chỉn chu từ ý tưởng cho tới việc thể hiện… tất cả hòa quyện để tạo ra phong cách chung tác phẩm.
Dàn diễn viên của Sân khấu Lệ Ngọc ngoài NSND Lệ Ngọc trong vai nữ chính Hoàng hậu Thiên Cảm, nghệ sĩ Văn Hải vai vua Lý Thái Tông còn các diễn viên rất "cứng" nghề như: Anh Tuấn, Lâm Cương, Thu Phương, Lưu Hoàng, Anh Đào… đã đảm trách tròn vai các nhân vật của vở và tạo được cảm tình lớn đối với người xem.
Quá trình luyện tập, nghe đóng góp ý kiến, tự nhìn nhận lại… các đêm diễn của Sân khấu Lệ Ngọc rất chú trọng lắng nghe khán giả, tìm hiểu những điểm chưa tới để tiếp tục hoàn thiện. Tất cả tập thể đều hướng tới mục tiêu cao nhất đó là cho ra đời tác phẩm thực sự hấp dẫn người xem.
Màn khai từ là một giấc mơ của nhà vua trong tiếng chuông, tiếng mõ (đời Lý thì Phật giáo rất phát triển và trở thành Quốc giáo). Màn kết cũng là cảnh giấc mơ đã thành hiện thực, ngôi chùa trong mơ đã hiển hiện trên mảng đất thiêng.
Mong muốn, sau vài đêm diễn nữa, cùng tinh thần quyết tâm hoàn thiện của tập thể nghệ sĩ, những lỗi nho nhỏ thường thấy ở các tác phẩm về lịch sử như từ ngữ, lời thoại còn chưa đúng với thời điểm bối cảnh lịch sử, một số chi tiết chưa thật hợp logic, có thể gây hiểu lầm trong khán giả, màn khai từ còn dài… sẽ nhanh chóng được sửa chữa.
Nhiều ý kiến hoan nghênh không chỉ tinh thần đi rất đúng định hướng phát triển nghệ thuật, tìm về và tôn vinh sử Việt, từ đó có các bài học giàu tính nhân văn, nóng hổi tinh thần thời sự mà còn là sự định hướng tư tưởng, giá trị nhân văn của vở diễn. Nhưng trên hết, là sự đánh giá cao cố gắng ở từng vở diễn của sân khấu tư nhân này. Sự tổng hợp của mọi yếu tố âm thanh, âm nhạc, ánh sáng, cùng sức sáng tạo của tác giả, đạo diễn và dàn diễn viên đã đem tới một thành công bất ngờ cho vở diễn mới này.
NSND Thúy Mùi, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam phát biểu: "Từ sự tích Chùa Một Cột vốn không có nhiều tình tiết để có thể hư cấu thành một câu chuyện hấp dẫn, đáng xem đã là điều rất đáng quý rồi. Chủ đề rất tốt, đạo diễn có nhiều mảng miếng hay, sân khấu linh hoạt, diễn viên diễn hay…".
Nữ nghệ sĩ cũng cho rằng, nhờ vào sự sáng tạo của ê-kíp nghệ sĩ và quyết tâm của tập thể Sân khấu Lệ Ngọc mà tinh thần của vở kịch đã được lan tỏa rộng rãi. Khiêu khích sự tò mò, đưa khán giả tới rạp và bằng chất lượng tác phẩm, giữ chân khán giả đến phút cuối, đó là thành công mà không phải đơn vị nghệ thuật sân khấu nào cũng có thể làm được.