Tham vọng chinh phục nhà Tống, thống nhất Trung Hoa của người Mông Cổ đã có từ thời Thành Cát Tư Hãn. Nguyên sử chép, Thành Cát Tư Hãn trước khi nhắm mắt đã vạch ra đường lối chiếm cả Kim lẫn Tống để thống nhất bằng được Trung Quốc.
Theo đó, quân Mông Cổ cần liên minh với Tống để tiêu diệt nhà Kim. Sau đó lại dựa vào đất Kim để đánh dốc xuống Tống. Thành Cát Tư Hãn nhận định, Tống – Kim có mối thù truyền kiếp nên có thể lợi dụng.
Nhà Kim là thế lực đã tiêu diệt triều Bắc Tống, bắt sống 2 vua Tống trong sự kiện “mối nhục Tĩnh Khang”. Bắc Tống diệt vong, Nam Tống phải lui xuống vùng Giang Nam cố thủ, chịu nhiều chèn ép, hạch sách từ quân Kim.
Mãi tới thời Hốt Tất Liệt – cháu nội của Thành Cát Tư Hãn – công cuộc chinh phục nhà Tống của người Mông Cổ mới hoàn thành.
Theo Sohu, sau khi cùng nhau liên thủ tiêu diệt nhà Kim, quân Mông Cổ lui bớt về phía Bắc, Tống muốn nhân cơ hội này thực hiện kế hoạch “quang phục Trung Nguyên”, tức thu hồi 3 vùng đất cũ đã bị quân Kim chiếm đoạt là: Đông Kinh (thành Khai Phong), Tây Kinh (thành Lạc Dương) và Nam Kinh (thành Quy Đức).
Năm 1234, Tống xuất quân, dễ dàng thu về Nam Kinh. Tuy nhiên, do chuẩn bị không được chu đáo, lương thảo không đủ, quân Tống tiến đánh Đông Kinh rất chậm chạp. Quân Tống để lỡ mất lợi thế bất ngờ nên bị Mông Cổ phát giác. Quân Mông Cổ đã mai phục sẵn và đánh cho Tống đại bại, kế hoạch khôi phục đất cũ bị phá sản hoàn toàn.
Sau chiến dịch này, quân lực nhà Tống bị tổn thất nghiêm trọng. Vua Tống là Tống Lý Tông chán nản, sa vào rượu chè, mỹ nữ, không còn màng đến chính sự. Triều đình nhà Tống ngày càng hủ bại.
Năm 1235, quân Mông Cổ do Hốt Tất Liệt khai chiến với nhà Tống. Đang trong tình thế giằng co, Hốt Tất Liệt nghe tin em trai là A Lý Bất Ca dám tự ý xưng Hãn (thủ lĩnh tối cao của Mông Cổ) nên rút quân về để tranh giành ngôi vị.
Quân Tống khi đó do tên gian thần bất tài Giả Tự Đạo chỉ huy. Giả Tự Đạo thấy Mông Cổ rút lui nhưng không truy kích mà ký hiệp ước đình chiến với sứ giả người Mông Cổ, với những điều khoản rất bất lợi cho nhà Tống. Giả Tự Đạo sau đó quay về triều đình, tuyên bố mình đã đánh lui Mông Cổ, không nhắc gì tới hòa ước.
Sau khi lên ngôi Khả Hãn, Hốt Tất Liệt tiếp tục sự nghiệp xâm lược nhà Tống đang còn dang dở. Tuy nhiên, ông vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân nhà Tống ở thành Tương Dương.
Theo bách khoa toàn thư lịch sử Trung Quốc, Tương Dương là tòa thành có vị trí chiến lược với 3 mặt giáp núi, án ngữ dòng sông Hán Thủy. Nếu chiếm được Tương Dương, quân Mông Cổ có thể xuôi dòng Hán Thủy, tiến vào Trường Giang, mở tung con đường đánh tràn ra khắp đất đai nhà Tống. Hốt Tất Liệt nhận định, chiếm được Tương Dương là chiếm được Tống.
Biết được tầm quan trọng của Tương Dương, nhà Tống đã cho xây dựng hệ thống phòng thủ vô cùng kiên cố. Thành Tương Dương được thiết kế với tường bao dày, lương thảo tích trữ rất dồi dào.
Thành Tương Dương có tới 4 tháp canh. Phần cổng thành được thiết kế theo kiểu 2 lớp. Nếu quân Mông Cổ phá được lớp ngoài, họ lại phải đối mặt với lớp thứ hai và bị bẫy chết. Quân dân trong thành Tương Dương có hơn 20 vạn, đều một lòng chiến đấu.
Đại chiến Tương Dương diễn ra vô cùng khốc liệt và dai dẳng, kéo dài từ năm 1267 – 1273. Công thành và thủy chiến chưa bao giờ là lợi thế của quân Mông Cổ. Tuy nhiên, kể từ khi mở mang bờ cõi ra khắp lục châu Á – Âu, lực lượng của Mông Cổ đã bổ sung thêm nhiều tộc người với những điểm mạnh khác nhau.
Trong đại chiến Tương Dương, Hốt Tất Liệt đã huy động 8 vạn quân Mông Cổ và 2 vạn quân người Hán. Người Hán có lợi thế là rất giỏi đánh thành.
Biết không thể phá Tương Dương trong một sớm một chiều, sau nhiều lần bị đánh lui, Hốt Tất Liệt đã chỉ huy quân đội hình thành thế bao vây, cô lập Tương Dương với phần còn lại của nhà Tống. Quân Mông Cổ lập nhiều doanh trại xung quanh thành, tập trung đánh chặn những con đường tiếp tế cho Tương Dương.
Bên ngoài thành Tương Dương, quân Tống không phải đối thủ của những kỵ binh dũng mãnh Mông Cổ. Hàng loạt nỗ lực phá vây của quân Tống để ứng cứu Tương Dương đều bị đánh bật lại, dân quân trong thành phải tự dựa vào sức mình.
Đến năm 1271, lương thực trong thành đã cạn nhưng quân dân Tương Dương vẫn đồng lòng giữ vững và chờ tiếp viện. Tại Lâm An – kinh đô nhà Tống – Giả Tự Đạo muốn giấu nhẹm chuyện tự ý ký hòa ước với Mông Cổ khi trước, nên quyết không cho gửi thêm quân đến Tương Dương chi viện.
Cùng năm 1271, Hốt Tất Liệt lên ngôi hoàng đế, lấy Bắc Kinh làm kinh đô, lập ra nhà Nguyên, đẩy mạnh việc xâm lược nhà Tống hơn nữa.
Năm 1273, quân Nguyên kéo tới Tương Dương nhiều hơn và còn mang theo vũ khí bí mật – Tây Vực pháo.
Trong những trận chiến khốc liệt xâm lược các nước vùng Trung Đông, Hốt Tất Liệt đã được nghe về sự hiện đại và uy lực của Tây Vực pháo. Mặc dù tên gọi là pháo, song thực chất đây chỉ là những chiếc máy bắn đá khổng lồ.
Điểm mạnh của Tây Vực pháo là hệ thống cần trục sử dụng trọng lực để bắn ra những khối đá khổng lồ (có thể tẩm thêm dầu lửa) với độ chính xác cao, tầm bắn xa và đặc biệt không dùng sức người để kéo như máy bắn đá thông thường.
Trước đó, những máy bắn đá loại thường không thể khiến lớp thành dày của Tương Dương tổn hại. Quân dân trong thành Tương Dương còn rải lưới che chắn tường thành, vì vậy, những khối đá nhỏ của máy bắn đá thông thường không thể phát huy uy lực.
Hốt Tất Liệt nhận xét, chỉ có Tây Vực pháo với những “quả đạn” nặng tới 300 kg mới có thể hạ được Tương Dương. Ông lệnh cho những kỹ sư từ các thuộc quốc Trung Đông tới Tương Dương chế tạo, làm gấp 20 chiếc Tây Vực pháo.
Phàn Thành – một thành nhỏ nằm gần Tương Dương – trở thành địa điểm thí nghiệm sức mạnh Tây Vực pháo của Mông Cổ. Chỉ trong vài ngày, Phàn Thành đã bị bắn hạ bởi Tây Vực pháo. Quân Tống ở Phàn Thành khiếp đảm vì những khối đá khổng lồ từ trên trời rơi xuống phá nát tường thành.
Quân Nguyên khi chiếm được Phàn Thành thì tàn sát hết quân dân trong thành để uy hiếp Tương Dương.
Hay tin sức mạnh mới của quân Nguyên, quân dân thành Tương Dương vẫn quyết giữ vững và chờ cứu viện. Giả Tự Đạo nghe tin Tây Vực pháo chẳng khác nào sét đánh ngang tai. Hắn ta khuyên vua Tống khi đó là Tống Độ Tông không xuất quân tới cứu Tương Dương.
Quân dân Tương Dương mong chi viện đỏ mắt, kết quả chỉ thấy ngày càng nhiều Tây Vực pháo được kéo tới.
Nguyên sử chép, một “quả đạn” từ Tây Vực pháo bắn thử nghiệm về Tương Dương bay vọt vào trong thành. Quân dân nhà Tống đổ ra xem, thấy “quả đạn” đã ngập sâu dưới đất tới hàng trượng thì lấy làm kinh hãi.
Lương thực cạn kiệt, quân tiếp viện không tới, lại thêm chuyện quân Nguyên có Tây Vực pháo, Lã Văn Hoán – tướng trấn thủ Tương Dương – biết không còn cách nào khác để giữ thành, đành mở cửa đầu hàng để bảo vệ sinh mạng cho thường dân.
Sau khi Tương Dương thất thủ, quân Nguyên thoải mái đánh tràn lan khắp những vùng đất khác của nhà Tống.
Năm 1276, kinh thành Lâm An thất thủ, vua Tống mới lên là Tống Cung Tông bị bắt làm tù binh. Một trung thần của nhà Tống là Trương Thế Kiệt phò tá Tống Đoan Tông – vua nhỏ mới 9 tuổi – chạy loạn khắp nơi.
Tống Đoan Tông bị ốm qua đời, Trương Thế Kiệt lại phò tá Tống Đế Bính. Năm 1279, trận chiến Nhai Môn nổ ra trên biển. Trương Thế Kiệt có 20 vạn quân nhưng trong đó lại bao gồm nhiều quan lại, người hầu trong cung không có sức chiến đấu.
Trương Thế Kiệt cho xích cả nghìn con thuyền lại để quyết chiến tổng lực với quân Nguyên nhưng thất bại. Tống Đế Bính nhảy xuống biển tự vẫn, nhà Tống chính thức diệt vong.