Tháng 12/1916, David Lloyd George thay thế Henry Asquith, trở thành tân Thủ tướng Anh và thay đổi chiến lược chiến tranh của quân Đồng Minh. Nội các chiến tranh của ông ra lệnh xâm lược Palestine vào ngày 2/11/1917 với việc ra Tuyên bố Balfour. Sự tán thành chính thức đó của Chủ nghĩa phục quốc đã thổi bùng một cơn bão tranh cãi không hồi kết trong hơn một thế kỷ qua. Để hiểu được việc này buộc phải hiểu tại sao các nhà lãnh đạo Anh chiến đấu cho sự sinh tồn của đế chế họ trong Đại chiến. Họ đã làm gì? Khi họ hứa sẽ hỗ trợ một ngôi nhà quốc gia ở Palestine cho người Do Thái, quan điểm chiến lược của giới lãnh đạo Anh đã bao trùm toàn bộ Trung Đông thời hậu chiến. Họ cũng hình dung ra việc đối xử rộng rãi với người Arab - những người đã tự đưa vào quyền tự quyết quốc gia ở một vài nước lớn. Quả vậy, mặc dù phần lớn người Arab tự liên kết họ với kẻ thù Thổ, họ đã kiểm soát phần lớn đất đai mà họ tuyên bố chủ quyền. Người Arab ở Palestine cuối cùng sẽ sống thiểu số trong một quốc gia dân chủ - đất nước có đa số là người Do Thái - và Lloyd George đã nhìn thấy đó là một sự áp đặt tương đối nhỏ.
Trong suốt Thế chiến I, không ai nghĩ rằng người Arab ở Palestine là một dân tộc riêng biệt có quyền tự quyết dân tộc (thậm chí không phải chính người Arab Palestine). Các tác giả người Anh của Tuyên bố Balfour cam kết bảo vệ quyền cá nhân của thiểu số Arab ở Palestine giống như họ đã làm cho các thiểu số dân tộc khác ở những nước mới được định hình ở Châu Âu. Việc Lloyd George nắm lấy Chủ nghĩa phục quốc đã mang tính chiến lược: thu hút công luận trên toàn cầu đứng về phía Anh trong cuộc chiến. Ngoài ra, việc đóng vai trò là người bảo vệ cho những người phục quốc sẽ giúp Anh biện minh cho việc duy trì quyền kiểm soát Palestine như là một phần của các thỏa thuận hòa bình thời hậu chiến. Đến đây câu chuyện về Aaron Aaronsohn và mạng lưới điệp viên NILI của ông (không được đánh giá cao) là một phần lịch sử của Đại chiến I và Trung Đông.
Hè năm 1917, Nội các chiến tranh Anh đang tranh cãi có nên đưa ra một tuyên bố về ủng hộ Người phục quốc hay không. Tướng Edmund Allenby vừa được trao quyền chỉ huy các lực lượng Anh ở Ai Cập. Allenby quan tâm đến việc xâm lược Palestine bằng cách hành binh từ Ai Cập lên bờ biển xuyên qua dải Gaza. Nhưng những kế hoạch ban đầu của Allenby đã vấp phải sự phản ứng của Bộ tổng tham mưu Hoàng gia Anh khi cho rằng ý tưởng của Allenby là quá mạo hiểm và phí tiền. Để đạt được mục tiêu, Allenby biết rầng cần phải có tình báo hiệu quả. Nguồn tình báo tốt nhất đến từ một người Do Thái tên là Aaron Aaronsohn. Aaronsohn (1876-1919) là một trong 3 điệp viên theo Chủ nghĩa Phục quốc, những người còn lại là Zeev Jabotinsky và Chaim Weizmann. Đứng về phe Anh, 3 người Do Thái này tự đặt mình mâu thuẫn với chính sách Phục quốc. Lãnh đạo Tổ chức Phục quốc có trụ sở ở Berlin, đã giải quyết vấn đề trung lập trong thời chiến và nỗi lo người Ottoman sẽ đè bẹp cộng đồng Do Thái ở Palestine.
Nhưng Aaronsohn, Jabotinsky và Weizmann đã có tính toán khác: trong mọi trường hợp người Thổ sẽ đối phó gay gắt với người Do Thái Palestine, và nước Palestine do người Anh kiểm soát là hy vọng lý tưởng nhất cho Chủ nghĩa Phục quốc. Để đạt được việc đó, Aaronsohn đã thiết lập một mạng lưới gián điệp cho người Anh đứng phía sau người Thổ. Tổ chức gián điệp mang tên gọi NILI chuyên thu thập thông tin phong phú cũng như đối mặt với hiểm nguy đáng sợ. Bất kỳ ai tham gia vào NILI đều có nguy cơ bị thủ tiêu, và nhân sự cốt cán là người nhà của Aaronsohn. Thư ký thuộc địa tương lai William Ormsby-Gore nhận xét: "Họ là những hạt nhân giá trị nhất trong mạng lưới tình báo của chúng tôi ở Palestine".
Chào đời ở Romania, năm lên 6 tuổi, Aaronsohn cùng cha mẹ đến đất Thánh. Họ sống trong một khu định cư nông nghiệp Do Thái mới, Zichron Yaakov, do nhà tài chính người Pháp gốc Do Thái là Nam tước Edmund de Rothschild tài trợ ngân sách. Học 2 năm về nông nghiệp ở Pháp. Mùa xuân năm 1906, sau khi tìm thấy cây lúa mì dại trong hoang dã, Aaronsohn được một quan chức của Bộ Nông nghiệp Mỹ tên là David Fairchild mời đến Mỹ.
Suốt 4 tháng, Aaronsohn đã thuyết giảng khắp miền Tây Hoa Kỳ. Điều ông muốn là thành lập một cơ sở nghiên cứu ở Palestine. Với sự hậu thuẫn của các nhà hảo tâm giàu có người Mỹ gốc Do Thái, Aaronsohn đã thành lập trạm nghiên cứu của mình vào tháng 10 tại Atlit (phía Nam Haifa). Bắt đầu vào mùa hè năm 1914, trạm này trở thành căn cứ hoạt động của mạng lưới gián điệp NILI. Từ lâu Aaronsohn biết rằng giới chức Thổ Nhĩ Kỳ luôn phản đối Phục quốc Do Thái. Cộng đồng người Do Thái ở Palestine cũng dễ bị tổn thương như người Armenia ở Anatolia - những người bị người Thổ cáo buộc đã thông đồng với người Nga và đã ra tay tàn sát với số lượng lớn. Djemal Pasha, chỉ huy đại binh thứ 4 của Ottoman đã cáo buộc người Do Thái địa phương không trung thành nên vào tháng 12/1914 đã tiến hành trục xuất 1.000 người Do Thái rời khỏi Đất Thánh. Trong số họ có David Ben-Gurion (Thủ tướng tương lai của Israel) và Yitzhak Ben-Zvi (Tổng thống tương lai của Israel) cả 2 đều cố gắng tổ chức người Do Thái Palestine chiến đấu. Suốt nhiều năm Aaronsohn mơ tưởng Palestine được tiếp quản bởi một cường quốc phương Tây. Khi chiến tranh bùng nổ, ông quyết định giúp người Anh, những người cần nhiều thông tin về quân đội Ottoman.
Một trận dịch cào cào đã mang đến cơ hội hiếm hoi cho Aaronsohn. Loài sinh vật phàm ăn đã tràn ngập Palestine vào tháng 3/1915, tàn phá nguồn cung lương thực. Djemal Pasha (một trong 3 lãnh tụ quân sự Ottoman) biết rằng Aaronsohn có những mối liên kết với giới chức Mỹ khi đó vẫn còn là nước trung lập. Bằng cách nhất trí tổ chức cuộc chiến chống cào cào, Aaronsohn có thể khảo sát Palestine và Syria, vốn đang nằm trong tầm kiểm soát của giới chức quân sự Thổ. Chẳng mấy chốc ông không những tích lũy kiến thức cả đời về địa hình, địa lý, khí hậu và tài nguyên của Palestine mà còn cả dữ liệu hiện tại về thứ tự chiến đấu của quân đội Ottoman. Thách thức tiếp theo là bắt liên lạc với tình báo Anh. Tháng 7 năm 1915, Aaronsohn đưa cho em trai Alexander và em gái Rivkah, mỗi người mang một hộ chiếu giả lên một chiếc tàu Mỹ đi từ cảng Beirut. Ở Ai Cập, Alexander đã gặp rắc rối khi một sĩ quan tình báo Anh cho rằng thông tin của ông là vô dụng.
Không nao núng, Aaronsohn thử cách khác: một hộ chiếu giả trao cho một lữ khách tên là Avshalom Feinberg (vị hôn phu của Rivkah và đồng thời là người bạn thân của Aaronsohn) trực chỉ đến Alexandria. Feinberg gặp may khi kết nối với một sĩ quan tình báo khác, người này lập tức đánh giá thông tin tình báo của Feinberg và sắp xếp cho các tàu Anh ở Địa Trung Hải liên lạc với các điệp viên Do Thái ở Palestine thông qua các tín hiệu đèn và thuyền chèo. Lúc đầu hệ thống này phát huy hiệu quả, nhưng sau đó thì thất bại do lỗi con người. Những báo cáo về các hoạt động trục xuất và sát hại nhiều người Armenia của quân đội Ottoman tiếp tục đến tay Aaronsohn trong năm 1916. Ông nhận thấy rằng kết nối với tình báo Anh là vấn đề cấp thiết. Aaronsohn quyết định tự mình lên đường sang Anh. Để tránh người Thổ nghi hoặc, Aaronsohn phao tin rằng mình đã tìm thấy một loại mè (vừng) giàu dầu và có tiềm năng kinh tế cao, và nói với giới chức Thổ rằng mình cần sự tư vấn của các nhà thực vật học ở Đức.
Qua Beirut, Damascus và Istanbul, Aaronsohn đến Berlin, và vào nước Đan Mạch trung lập để dự các hội thảo khoa học. Ở Copenhagen, Aaronsohn bí mật đột nhập đại sứ quán Anh và giới thiệu mình là nhà ngoại giao cấp cao cũng như tiết lộ mạng lưới gián điệp Palestine bao gồm những tình tiết về kết nối bị hủy bỏ với các sĩ quan Anh ở Ai Cập. Cả 2 vạch kế hoạch đưa Aaronsohn đến London mà không sợ người Thổ trả thù. Aaronsohn rời Copenhagen bằng cách đáp tàu đến Scotland trên đường sang Mỹ. Ở Scotland, giới chức Anh đã giả cách bắt giữ ông và phao tin ông là điệp viên Ottoman - một phần bảo hiểm kịch tính trong trường hợp chính quyền Thổ biết Aaronsohn đang ở Anh. Từ Scotland, Aaronsohn được mang tới London để thẩm vấn. Aaronsohn được diện kiến với nghị sỹ có tầm ảnh hưởng Sir Mark Sykes (người đã đàm phán Thỏa thuận Sykes-Picot về quyền kiểm soát hậu chiến đối với các vùng đất của người Arab).
Trong thời gian Aaronsohn vắng mặt ở Palestine, người em gái Sarah đã nắm quyền điều hành các điệp viên NILI. Bà tìm cách chuyển các báo cáo cho anh trai thông qua các liên lạc Thổ, nhưng một số đặc vụ NILI lớp chết, lớp bị thương nặng trong lúc làm nhiệm vụ. Thế rồi, sự đánh giá cao các điệp viên Do Thái cũng tăng lên khi Aaronsohn liên kết với ông William Ormsby-Gore, một sĩ quan tình báo Anh khác, người đã nhiệt tình gửi về Anh một số báo cáo của NILI về các nguồn lực và những lỗ hổng của Ottoman. Ormsby-Gore đã giúp Aaronsohn giành được sự tin cậy từ giới lãnh đạo ở Cairo.
Một trong những thách thức chính của Tướng Edmund Allenby là vạch ra một lộ trình xâm lược. Các quan chức Anh quyết định từ bờ biển Sinai tiến vào Palestine, vì vậy Aaronsohn thúc giục họ xâm lược đất liền hướng tới Beersheba thay vì thông qua một cuộc di chuyển tiêu chuẩn lên bờ biển. Aaronsohn lập luận rằng Gaza sẽ không dễ dàng bị sụp đổ nếu như nó bị bao vây từ hướng Đông.
Mặc dù ý định ban đầu của Tướng Allenby là đi theo đường biển và tấn công Gaza từ hướng Tây Nam nhưng khi tiếp cận với quan điểm của Aaronsohn, ông đã hình thành kế hoạch tấn công vào Gaza nhưng lực đẩy chính về phía Beersheba. Khi thời cơ đến, Gaza bị giáng đòn từ phía Đông. Trong khi 2 nhân vật quyền lực Mark Sykes và William Ormsby-Gore đang tìm cách phải làm gì để định khung cho Tuyên bố Balfour thì giới chức Thổ Nhĩ Kỳ đã thành công khi đi trước một bước phá hủy mạng lưới tình báo của Aaronsohn. Khởi đầu cho sự kết thúc của NILI là một chú bồ câu giao liên. Mang theo một thông điệp được mã hóa, con chim rời căn cứ NILI ở Atlit và hạ cánh vào ngày 4/9/1917 tại thành phố cạnh bên tại ngôi nhà của một sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ. Lầm lẫn tai hại này đã dẫn đến việc bắt giữ 1 điệp viên Do Thái khi người này đang cố gắng vượt biên Palestine sang Ai Cập chỉ 2 tuần sau đó, từ đây cho phép người Thổ phanh phui mạng lưới tình báo NILI.
Các lực lượng Thổ đã bắt Sarah và cha bà tại nhà của họ và khảo tra để moi tin. Trong suốt 2 ngày thẩm vấn sau đó, Sarah buộc phải chứng kiến cảnh cha bị ngược đãi. Bà tìm cách lấy một khẩu súng trong nhà và tự bắn vào miệng mình. Sarah qua đời trong đau đớn sau đó 4 ngày khi chỉ mới 27 tuổi. Tình báo Anh đã biết về sự sụp đổ của NILI cùng cái chết bất khuất của bà Sarah dưới đòn roi tra khảo vào giữa tháng 10. Rời Cairo để đi du lịch, vài tuần sau đó Aaronsohn đã đón nhận được hung tin và suy sụp. Tháng 11/1917, người Anh đã ban hành Tuyên bố Balfour. 5 tuần sau ngay trước Lễ Giáng sinh, các lực lượng của Tướng Edmund Allenby đã chiếm được Jerusalem. Năm sau đó, quân đội Anh đã giải phóng phần còn lại của Palestine và chấm dứt 400 năm chủ quyền của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Cận Đông. Thổ Nhĩ Kỳ từ bỏ cuộc chiến và không đầy 2 tuần sau đó, Đức đã đầu hàng vô điều kiện.
Theo đánh giá của giám đốc tình báo quân đội trong thời chiến của Anh, Thiếu tướng George MacDonough, thì khả năng hành binh không gặp trở ngại của Tướng Edmund Allenby ở Palestine chính là nhờ sự hy sinh của mạng lưới tình báo NILI. Những lời của ông MacDonough đã được xác thực bởi Phó thư ký quân sự của Tướng Allenby, Raymond Savage. Aaron Aaronsohn qua đời trong một vụ rơi máy bay vào năm 1919. Viết vào sổ tang của Aaronsohn, Tướng Allenby đề từ: "Ông là người chịu trách nhiệm chính trong việc thành lập Tổ chức tình báo thực địa đằng sau phòng tuyến Thổ Nhĩ Kỳ. Cái chết của Aaronsohn đã tước đi của tôi một người bạn quý giá và một sĩ quan tham mưu không ai có thể thay thế được".