Dân Việt

Ai là vị vua Việt đầu tiên tuần thú biển Đông?

TA 31/05/2023 19:31 GMT+7
Trong lịch sử, Lý Anh Tông chính là vị vua Việt đầu tiên tuần thú biển Đông, xem xét tình hình để có phương sách bảo vệ chủ quyền trên vùng biển đảo rộng lớn mà các triều đại trước đó đã xác lập.

Trái với nhiều quốc gia lân bang cùng thời kỳ chỉ quan tâm đến lãnh thổ trên đất liền, thực hiện chính sách "cấm biển", "cấm xuất dương"; các triều đại phong kiến Việt Nam lại đặc biệt chú trọng đến biển, không chỉ nhằm khai thác hải sản và các nguồn lợi khác từ biển mà còn từng bước xác lập chủ quyền trên các hải đảo. Thậm chí có vị vua còn trực tiếp đi tuần thú ra biển để xem xét và người đầu tiên thực hiện việc đó là Lý Anh Tông, hoàng đế thứ 6 của triều Lý.

Lý Anh Tông tên thật là Lý Thiên Tộ sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136), con trưởng của Lý Thần Tông, mẹ là hoàng hậu Cảm Thánh, họ Lê (không rõ tên), bà là cháu năm đời của vua Lê Đại Hành. Ông là vị vua lên ngôi sớm nhất của triều Lý, ngày 01 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138) đăng quang làm hoàng đế, khi đó mới 2 tuổi, làm vua đến tháng 7 năm Ất Mùi (1175), tổng cộng ở ngôi 37 năm.

Ai là vị vua Việt đầu tiên tuần thú biển Đông? - Ảnh 1.

Trong thời gian ở ngôi báu, Lý Anh Tông rất quan tâm đến hoạt động xây dựng quốc gia và bảo vệ đất nước, ông đặc biệt chú trọng đến việc giữ gìn biển đảo. Sử chép rằng, vào tháng 11 năm Tân Tị (1161) vua sai Thái úy Tô Hiến Thành “đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên bờ cõi xa. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An mới trở về”. Năm Tân Mão (1171) “vua đi tuần ra cù lao ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần thế nào” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Cũng theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, một năm sau, vào tháng 2 năm Nhâm Thìn (1172) “vua lại đi tuần ra cù lao ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về”.

Qua các lần đi này, vua Lý Anh Tông đã soạn một cuốn sách lấy tên là Nam Bắc phiên giới đồ. Tiếc là cuốn sách này nay đã thất truyền. Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục soạn vào thời nhà Nguyễn cũng cho biết điều này. Theo Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú thì sách Nam Bắc phiên giới đồ còn có tên là Nam Bắc phiên giới địa đồ: “Lý Anh Tông, năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 [1172], đi tuần du các cửa biển, vẽ bản đồ hình thế núi sông và chép phong tục sản vật. Nay không còn”.

Tuy thông tin về các chuyến đi ra biển của Lý Anh Tông không được ghi chép chi tiết, cụ thể nhưng có thể thấy ông là vị lãnh đạo quốc gia đầu tiên của nước ta ngoài việc quan tâm đến việc giữ gìn biên cương trên bộ còn chú ý đến cả vùng hải đảo nên sách sử có đánh giá rằng “về mặt giữ dân, giữ nước, việc làm đáng khen” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Trong sách Đại Việt sử ký tiền biên chép lời bình của sử thần triều Hậu Lê là Ngô Thì Sĩ về việc chú trọng quân sự, quan tâm giữ gìn lãnh thổ của Lý Anh Tông như sau: “Tuyển quân, chọn nước, cho quan võ luyện tập đánh giặc phá trận. Vua cũng tự cưỡi ngựa bắn cung ở sân bắn và đích thân đi tuần các đảo ngoài biển. Việc quân cơ, việc phòng biên giới một phen chấn chỉnh”.

Sách Đại Nam quốc sử diễn có đoạn ca ngợi rằng:

Thành Nam mở chốn võ tràng,

Tập tành cung ngựa phô trương tinh kỳ.

Uy danh dậy đến biên thùy,

Chiêm Thành, Ngưu Hống man di cũng bình.

Tuần du đã tỏ dân tình,

Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xa.

Hạm thuyền đưa vua Lý ra biển khơi

Biển Đông là khu vực mà các tàu thuyền qua lại rất sợ bởi nhiều bão tố, chứa đựng hiểm họa khôn lường, thế nhưng chắc chắn rằng thủy quân triều Lý đã phát triển đến một trình độ nhất định, đủ khả năng tác chiến, vận động trên những chặng hải trình xa, đủ chống chọi với sóng to gió lớn.

Không có nhiều tư liệu về thủy quân triều Lý nhưng những gì còn thấy trong một số thư tịch cũng đủ khẳng định thuỷ quân triều Lý tuy không đông nhưng rất tinh nhuệ, giỏi thuỷ chiến. Điều này được chính vua quan nhà Tống đương thời nhìn nhận, trong sách Lịch ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi có viết: “Quân Giao Chỉ giỏi thuỷ chiến”.

Về tổ chức, quân thuỷ thời Lý chia thành các đội, hạm, nhiều đội thuyền, hạm thuyền hợp thành đạo quân lớn với các loại thuyền khác nhau như thuyền mông đồng, lâu thuyền, lưỡng phúc thuyền (thuyền hai lòng) trong đó thậm chí có những thuyền loại lớn chở được nhiều quân lính, voi ngựa, như đã được sử dụng trong trận tập kích chiến lược đánh vào Khâm Châu, Liêm Châu đất Tống bằng đường biển cuối năm Ất Mão (1075).

Đối với thuyền vua ngự, chắc chắn có quy mô to đẹp, vững chãi, kết cấu hơn hẳn các loại thuyền thông thường. Sách sử có chép rằng dưới thời Lý, triều đình nhiều lần cho đóng các chiến hạm và những loại thuyền đặc biệt khác như chiến thuyền hiệu Long, Phượng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ do vua Lý Thái Tông sai đóng năm Qúy Mùi (1043), thuyền hai đáy Vĩnh Long do vua Lý Nhân Tông cho đóng năm Bính Tuất (1106), thuyền lớn Vĩnh Long, Thanh Lan, Trường Quyết, Phụng Tiên do vua Lý Anh Tông sai đóng năm Đinh Mão (1147)…

Khi vua ngự giá bằng đường biển, hộ tống phải là những con thuyền trong hạm đội hùng hậu. Thế nhưng ở thời kỳ khoa học kỹ thuật nói chung và công nghệ đóng thuyền nói riêng vẫn còn lạc hậu, hạn chế thì việc đóng những con tàu lớn đủ sức vươn ra biển lớn phải là sự cố gắng tuyệt vời với sức lực và trí tuệ của người thợ Việt.

Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến nghệ thuật kết thuyền (liên hạm). Về mặt kỹ thuật, kết thuyền giải quyết được vấn đề chống sóng, đặc biệt cho thuyền khi hoạt động ở vùng nước có sóng lớn hoặc khi gió bão. Về mặt chiến thuật, khi tác chiến kết thuyền cho phép tạo ra mặt phẳng tương đối rộng và ổn định trên mặt nước, nhờ đó dễ phát huy khả năng đánh bộ trên thuyền, dễ bố trí và triển khai lực lượng, chống kẻ địch giáp lá cà cướp thuyền. Trên nội dung tấm bia Sùng thiên diên linh có đoạn viết về kết thuyền như sau: “Hiền thánh mưu chi thần diệu, chế ngự bách chi tinh kỳ. Trước trạng, thiết liên hạm tráng hùng, lập cách tạo thiêu sưu tú lệ” (Nghĩa là: Làm sáng tỏ sự kỳ diệu của mưu thần, làm ra sự tinh vi kỳ lạ của thuyền vua. Theo hình mà đặt liên hạm tráng hùng, tìm cách mà dựng nghìn thuyền tú lệ).

Có thể nói những chuyến đi của Lý Anh Tông ra biển Đông cho thấy sức mạnh to lớn của thủy quân triều Lý và nghệ thuật cơ động, tác chiến tài tình. Không chỉ vậy, nó còn là sự cổ vũ thủy quân Đại Việt trong hoạt động thực thi nhiệm vụ tuần tra, giám sát; còn nhắc nhở ý thức, trách nhiệm trong việc bảo vệ vùng biển chủ quyền thiêng liêng của đất nước.