Trung tuần tháng 2 năm nay, tôi bất ngờ nhận được món quà quý từ Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Đó là một cuốn sách "Người Thầy" của anh với lời đề tặng hơi lạ: "Kính tặng anh Khuất Quang Thụy. Tôi đã thực hiện lời hứa là sẽ kể về ông Ba sau chiến thắng năm 1975. Kính mến!". Trời đất, hoá ra ông tướng tình báo này còn nhớ một lời hứa bâng quơ với mình từ hơn chục năm trước. Không chỉ hứa, mà còn thực hiện được nữa.
Chuyện là vào đầu năm 2000, nhà văn Chu Lai và tôi được đích danh ông Nguyễn Chí Vịnh, lúc đó đang là Tổng cục trưởng Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng mời tới Tổng hành dinh của Tổng cục để "uống trà" và bàn chuyện viết lách. Với chúng tôi, được mời vào theo "cổng chính" để nói chuyện viết lách về cái ngành đặc biệt này quả là một đặc ân.
Lúc đầu cuộc gặp diễn ra có phần hơi nghiêm túc, căng cứng vì hầu như có mặt tất cả các vị đứng đầu Tổng cục, cơ quan chính trị và một vài nhân vật lạ lẫm. Nhưng với cách dẫn chuyện cởi mở, có phần hơi hài hước của Tổng cục trưởng Nguyễn Chí Vịnh, không khí dần trở nên sôi nổi, thân mật gần gũi hơn. Khi tôi hỏi "Vậy chúng tôi sẽ viết những gì?", ông Vịnh nói luôn "Các anh sẽ được tiếp cận và viết về những nhân vật tình báo quan trọng nhất của quân đội ta". Nghe thế, chúng tôi nửa mừng nửa lo. Nhưng lại nghĩ, nói vậy thôi chứ cho đến khi tiếp cận được nhân vật thì cũng… còn chán!
Ai ngờ, chỉ ít ngày sau, chúng tôi đã nhận được lời mời vào Tổng cục để "làm việc luôn", gặp gỡ và nói chuyện với các "cụ" tình báo "gộc" ngay lập tức! Như cách nói của anh Vịnh: "Mời các anh vào để làm quen với các ông trước". Ai ngờ, cuộc gặp ấy là để các cụ xem mặt và chọn người viết về mình. Nghĩa là nhân vật chọn tác giả, chứ không phải tác giả chọn nhân vật. Và tôi, may mắn thế nào lại lọt được vào "mắt xanh" của ông Ba Quốc (tức Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Đức). Chuyện "xem mắt" chọn người này phải đến khi đọc cuốn sách của anh Vịnh chúng tôi mới biết, chứ lúc đó tôi cứ đinh ninh rằng mình đã được "tổ chức phân công" viết về ông Ba Quốc.
Và cũng phải đến khi được đọc cuốn tự truyện "Người Thầy" của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh tôi mới hiểu vì sao hồi đó mình tiếp cận thuận lợi đến vậy với ông Ba. Bởi vì ông là người có tính tổ chức, tính kỷ luật rất cao. Một khi tổ chức đã ra quyết định, đã phân công, đã yêu cầu làm việc gì thì ông sẽ làm đến nơi đến chốn, kể cả chuyện kể về cuộc đời mình, một việc mà trước đó ông luôn tìm cách lảng tránh.
Ông cũng tạo điều kiện cho tôi tiếp cận, hiểu rõ câu chuyện, nắm chắc những vấn đề thuộc về nguyên tắc của ngành khi thu thập tài liệu, gặp gỡ các nhân chứng và soạn thảo văn bản. Phần lớn thời gian tôi được làm việc với ông tại văn phòng của ông do Cục 12 bố trí, nhưng cũng có vài lần ông mời tôi đến nhà riêng của ông trên đường Cộng Hoà (TP.HCM). Khi tôi tới, ông nói: "Phiền anh tới đây vì hôm nay tôi hơi mệt". Thực ra, tôi cũng rất muốn đến, rất cần đến thăm gia đình ông, gặp gỡ trò chuyện với những người thân của ông, quan sát nơi ông vẫn sống "như người thường", nhưng do giữ nguyên tắc của ngành nên tôi không dám ngỏ lời. Những lần được may mắn tiếp cận với gia đình ông, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, tôi cũng chỉ thực hiện được khi ông cho phép...
Xin được kể thêm một chi tiết mà tôi đã bị "việt vị" trong lần đầu tiên được tiếp xúc riêng với ông. Hồi đó, đại tá nhà báo Nguyễn Trần Thiết cũng vừa in xong cuốn "Vị tướng tình báo và hai bà vợ". Tôi đã đọc kĩ cuốn sách, coi như mình có được một chút vốn hiểu biết về ông trước khi nói chuyện với ông. Nhưng khi tôi vừa nói tới cuốn sách, ông liền xua tay: "Khi làm việc với tôi, anh phải quên hết những gì người ta đã nói và viết về tôi hoặc về… những câu chuyện na ná như thế đi. Có như vậy anh mới sáng suốt, tự tin mà tự quyết định mình sẽ viết gì, viết như thế nào…". Thật là một lời khuyên thấm thía đối với người cầm bút.
Tôi dần quen với cách đặt vấn đề cách dẫn dắt câu chuyện của ông. Tôi biết, ông rất kiệm lời, không thích kể dông dài mà chỉ chú tâm đến những gì cốt lõi nhất, quan trọng nhất. Nhưng đến khi viết, tôi lại không cầm lòng được trước những câu chuyện hấp dẫn, li kì; trước những tình huống tâm lí rất thú vị, kịch tính. Vì, suy cho cùng nó đều… rất tiểu thuyết.
Cũng may, tôi còn tỉnh táo nên khi viết xong được một phần tôi lại đưa cho ông đọc thử. Ông đọc một cách một cách nghiêm túc và làm việc trên bản thảo của tôi cẩn thận như một biên tập viên mẫu mực. Ông đã thẳng tay loại bỏ những dòng, những đoạn mà tôi cho rằng rất tâm đắc, rất văn chương. Dĩ nhiên, có cả tình tiết, câu chuyện, ông yêu cầu tôi loại ra vì lí do nghề nghiệp, vì nguyên tắc của ngành. Vì thế trong cuốn sách tôi viết về ông còn có một số đoạn mờ nhoè, thiếu hụt (rất may, trong cuốn "Người Thầy", anh Nguyễn Chí Vịnh đã khéo léo cài cắm để bù lại được một số đoạn còn thiếu khuyết).
Khi đặt dấu chấm hết cho cuốn "Tình báo không phải là nghề của tôi", tôi có nói với Tổng cục trưởng Nguyễn Chí Vịnh rằng, tôi đặc biệt tiếc nuối vì đã không được giúp ông Ba kể nốt quãng đời cống hiến đặc biệt xuất sắc của ông cho ngành tình báo kể từ sau năm bảy mươi lăm tới nay. Và lúc đó anh Vịnh đã hứa với tôi "Được rồi, ta tạm dừng ở đây đã. Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ viết về quãng đời thú vị này của ông Ba. Rất có thể chính tôi sẽ phải viết, phải kể những câu chuyện ấy…".
Và bây giờ anh đã kể. Cảm ơn anh Vịnh. Những câu chuyện của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh kể trong cuốn truyện kí "Người Thầy" khiến tôi và nhiều người may mắn được đọc cảm thấy rất ấn tượng. Nhà thơ Hữu Việt, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Trưởng Ban Nhà văn Trẻ, nhân gặp tại một buổi họp của Ban chấp hành đã túm lấy tôi và trầm trồ: "Anh Thụy này, tôi vừa đọc một mạch xong cuốn "Người Thầy" của ông Nguyễn Chí Vịnh. Hay và hấp dẫn lắm anh ạ. Hiếm gặp một cuốn sách có phong cách kể chuyện thú vị đến thế. Trong sách có nói đến chuyện anh viết cuốn sách rất hay về ông già tình báo Ba Quốc. Vậy mà tôi chưa được đọc. Nếu được anh cho tôi đọc với". Tôi có hứa với Hữu Việt là sẽ tìm trong kho sách của mình, nếu còn tôi sẽ gửi tặng anh, vì cuốn sách xuất bản lâu rồi, chưa có dịp tái bản.
Cuốn sách của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh chọn người thầy làm nhân vật trung tâm. Chọn chuyện dạy người dạy nghề, học làm người và học làm nghề là chuyện chính. Tác giả không định chủ tâm kể chuyện làm tình báo. Nhưng vì thầy ấy, dạy nghề ấy, trò ấy học nghề ấy, nên cuối cùng thì những câu chuyện tình báo, những chiến công lẫy lừng nhưng hết sức thầm lặng của ngành tình báo quân sự vẫn cứ hiển hiện một cách hết sức tự nhiên.
Các chiến dịch tình báo, các điệp vụ, công việc bếp núc của một trợ lí tình báo, hay công tác tham mưu lập kế hoạch tình báo cho cả một chiến dịch lớn, xây dựng quan điểm tình báo trong thời điểm thế giới có những biến động địa chính trị và cạnh tranh nước lớn khốc liệt… tất cả vừa là diễn biến thực của nhiệm vụ tình báo trong thời kì mới sau chiến tranh giải phóng, vừa được dùng như những "học liệu" để thầy dạy trò. Cuối cùng bao trùm lên tất cả là những bài học về một cuộc chuyển giao thế hệ không hề dễ dàng, không chỉ của riêng ngành tình báo trong giai đoạn vừa qua trên đất nước ta...
Đọc cuốn sách của Nguyễn Chí Vịnh, chúng ta sẽ thấy dần dần phát lộ một cách tự nhiên chân dung của một người thầy và của những người học trò vừa theo những chuẩn mực truyền thống "tôn sư trọng đạo", vừa hài hoà với những phẩm chất mới mẻ của người thầy và những người học trò của thời đại mới, trong những môi trường rất đặc biệt: người thầy thì vừa dạy vừa làm lại vừa học tập hàng ngày tự tích luỹ thêm kinh nghiệm, kiến thức, tự làm mới mình; học trò thì cũng vừa học vừa làm, vừa học từ thầy vừa tự học từ thực tiễn, từng bước nâng mình lên từ lúc còn phải cầm tay chỉ việc đến khi có thể tự "bay đơn", tự ra quyết định trong những tình huống khó khăn ngặt nghèo…
Nhân vật trung tâm, đại diện cho những người thầy trong cuốn sách của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh là nhà tình báo chiến lược, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (ông Ba Quốc). Ngay trong những lần gặp mặt đầu tiên với chúng tôi, tướng Nguyễn Chí Vịnh đã giữ trọng trách Tổng cục trưởng Tổng cục 2; còn ông Ba Quốc lúc đó đã nghỉ hưu, những vẫn được tổ chức yêu cầu giữ vai trò cố vấn cho lãnh đạo chỉ huy Tổng cục. Nhưng mỗi khi nhắc tới ông, tướng Vịnh vẫn luôn gọi là "Thầy tôi" với giọng nói ngọt ngào và rất đỗi tự hào.
Đến khi thầy qua đời, ông ứng xử theo đạo hiếu đễ thầy trò truyền thống. Ông coi gia đình của thầy như gia đình mình, anh chị em trong nhà thầy cũng như là anh em ruột thịt. Đến nay, khi thầy đã qua đời nhiều năm, người học trò "đắc ý" nhất của thầy sau nhiều năm giữ trọng trách Tổng cục trưởng, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cũng đã hoàn thành nhiệm vụ, được về nghỉ hưu, nhưng tình cảm đồng chí đồng đội sắt son, nghĩa thấy trò trong ông vẫn sâu đậm như vậy. Đó là một thứ tình cảm trân quý mà trong xã hội ta hôm nay dường như đang ngày càng hiếm hoi...