Sái Kinh (1047-1126) là người giữ chức vụ quan đầu triều (thừa tướng) nhiều lần nhất thời Bắc Tống và bị sử sách nhìn nhận là gian thần. Trong 50 năm trên quan trường, Sái Kinh 4 lần đứng ở cương vị quan đầu triều. Nếu tính cả lần thăng từ Thượng thư Hữu bộc xạ lên Thượng thư Tả bộc xạ thì Sái Kinh đã 5 lần làm quan đầu triều và 3 lần… bị mất ngôi vị này.
Năm 1.100, Tống Triết Tông qua đời, em là Triệu Cát lên ngôi, tức là Tống Huy Tông. Sái Kinh lúc này bị giáng xuống làm Đoan minh điện học sĩ và Long đồ các học sĩ không có thực quyền.
Tống Huy Tông định điều Sái Kinh ra làm Tri phủ Thái Nguyên, nhưng Hướng thái hậu ngăn lại và đề nghị để ông tiếp tục viết sử sách. Cùng lúc đó Trần Quán tố cáo Sái Kinh thường giao du với thái giám, nội thị mưu đồ xấu, Tống Huy Tông liền biếm ông đi làm Tri phủ Giang Ninh. Một số đại thần khác ghét Sái Kinh lại làm đơn tố cáo ông tỏ ý bất mãn khi bị chuyển chức, vì vậy Tống Huy Tông hạ lệnh truy đoạt các chức vụ trước đây của ông và đưa làm Đề cử tại Động Tiêu cung (một ly cung ở Hàng Châu). Ông vội vã lên đường đến Hàng châu vì sợ bị hại.
Không lâu sau, Hướng thái hậu giao lại việc điều hành triều chính cho Tống Huy Tông. Tống Huy Tông ham chơi, thích làm thơ, vẽ tranh, trọng dụng hoạn quan Đồng Quán. Tống Huy Tông đặt ra Ty kim minh lo việc thu thập sách vở cho vua. Đồng Quán được sai làm việc lo việc thu thập sách vở cho vua Tống Huy Tông. Sái Kinh liền bắt mối quan hệ với Đồng Quán. Sái Kinh nhờ Đồng Quán tiến dẫn với Tống Huy Tông. Biết Tống Huy Tông thích nghệ thuật, Sái Kinh ngày đêm viết chữ lên các bức tranh và làm thơ, nhờ Đồng Quán dâng lên vua và nói giúp. Cùng lúc, các thừa tướng Tăng Bố và Hàn Trung Ngạn cũng tranh chấp quyền lực, Tăng Bố muốn có thêm vây cánh chống Hàn Trung Ngạn nên cũng tiến cử Sái Kinh. Vì vậy không lâu sau ông được Tống Huy Tông đổi đi làm Tri châu Định châu, sang năm 1.102 được làm Tri phủ ở phủ Đại Danh.
Nghe theo ý kiến của Tăng Bố, Tống Huy Tông thay đổi lập trường trung hòa giữa biến pháp (Vương An Thạch trước đây) và thủ cựu (Tư Mã Quang trước đây) sang quan điểm ngả hẳn theo biến pháp, do đó bãi chức Thượng thư Tả bộc xạ của Hàn Trung Ngạn. Tăng Bố muốn nắm trọn quyền hành, nhưng Tống Huy Tông lại triệu Sái Kinh về phong làm Thượng thư tả thừa. Vì thế giữa Tăng Bố và Sái Kinh xảy ra mâu thuẫn.
Sợ Tăng Bố quay lại trả thù, Sái Kinh vu cáo Tăng Bố tham ô và sai Tri phủ Khai Phong là Lã Gia Vấn bắt các con Tăng Bố tra tấn bắt khai nhận tội, nhưng họ một mực không thừa nhận cha mình tham ô. Sái Kinh bèn sai người đứng ra làm chứng giả để buộc tội Tăng Bố khiến Tăng Bố liên tiếp bị giáng chức và tới năm 1.107 chết tại nơi bị giáng chức.
Đầu năm 1.103, Sái Kinh được Tống Huy Tông thăng lên làm Thượng thư Tả bộc xạ. Nghe theo đề nghị của ông, Tống Huy Tông lập ra Ty đô tỉnh giảng nghị là cơ quan giúp Thừa tướng trong việc điều hành triều đình. Ông đưa những người thân tín của mình như Ngô Cư Hậu, Vương Hán Chi vào cơ quan này. Từ đó việc thăng chức hay bãi miễn các quan và chi thu tài chính quốc gia đều do Ty đô tỉnh giảng nghị thực hiện và tâu Tống Huy Tông phê chuẩn.
Trên danh nghĩa, Sái Kinh dùng chiêu bài phục hồi biến pháp Vương An Thạch nhưng trên thực tế thì chỉ để làm lợi riêng. Để triệt hạ hoàn toàn phe thủ cựu, Sái Kinh kiến nghị Huy Tông liệt kê tên tuổi những người thuộc phe này gồm 109 người từng theo Tư Mã Quang, khắc tên lên bia đá gọi là "danh sách gian đảng" bêu danh xấu trước cửa Đoan Lễ tại điện Văn Đức để noi gương cho đời sau. Sau đó ông lại phát động một phong trào khắc bia bêu danh những người phe này tại các địa phương trong toàn quốc. Do đợt trả thù này của Sái Kinh, hàng loạt tên tuổi danh sĩ và tác phẩm bị Huy Tông ra lệnh thiêu hủy như Tô Tuần, Tô Đông Pha, Tô Triệt, Tần Quán, Trương Lỗi, Triệu Bổ Chi...
Không chỉ trả thù phe thủ cựu, Sái Kinh quay sang đả kích cả một số người trong phe tân pháp như các học trò của Vương An Thạch là Lục Điền và Lý Thanh Thần vì từng xúc phạm tới ông. Chương Đôn từng phản đối đưa Tống Huy Tông lên ngôi khi Tống Triết Tông mới mất, Sái Kinh lấy lòng Huy Tông cũng khép con cháu Chương Đôn cùng phe thủ cựu và trả thù. Chỉ trong 2 năm từ khi Sái Kinh làm thừa tướng, có gần 1.000 người bị hãm hại.
Biết Tống Huy Tông thích hưởng lạc, Sái Kinh còn khởi xướng học thuyết Phong hưởng dự đại, tô vẽ cảnh thái bình thịnh trị của đất nước, đề xuất cách ăn chơi hưởng thụ, xui Tống Huy Tông ra sức xây dựng cung điện đền đài, gây lãng phí nhiều tiền bạc của nhân dân. Ông cùng Đồng Quán chủ xướng việc khai thác nhiều đá hoa cương để cung cấp cho Huy Tông xây cái núi giả để thưởng ngoạn gọi là Vạn tuế sơn. Việc tiêu tốn tiền của khiến triều đình tăng thu, việc đánh thuế nhân dân ngày càng nặng, kiểm kê cả đến hạt thóc, quả đậu và từng que củi, khiến nhân dân càng thêm khổ cực. Tống Huy Tông rất vừa ý, bèn phong ông làm Gia quốc công, ban thưởng cho ông khu đất lớn trong kinh thành để xây phủ, sau đó lại ban cho một khu đất nữa ở phía tây kinh thành. Sái Kinh được đất mới lại phá hủy thêm hàng trăm nhà dân đang ở để mở rộng vườn nhà mình. Cả hai khu nhà Sái Kinh đều xây cất và tiêu phí rất tốn kém.
Do quyền thế của Sái Kinh và Đồng Quán, người đời lúc đó gọi Sái Kinh là "tướng ông", Đồng Quán là "tướng bà". Dân gian căm giận Sái Kinh và Đồng Quán bèn đặt ra câu đồng dao: "Đập bẹp ống đồng (chỉ Đồng Quán), đổ đĩa cải thái (chỉ Sái Kinh), cuộc đời sẽ khoái!"...
Năm 1.126, Sái Kinh nghe tin Tống Huy Tông nhường ngôi cho con trai Tống Khâm Tông bỏ Khai Phong rút chạy, cũng vội mang tất cả của cải (ước tính gần 200 gánh vàng bạc châu báu) chất lên thuyền lớn, rời kinh thành. Sức ép của quân Kim ngày càng lớn, Tống Khâm Tông buộc phải trọng dụng viên tướng chủ chiến Lý Cương để ngăn địch. Lúc đó, nhiều người dâng sớ xin trị tội Vương Phủ, cha con Sái Kinh, Đồng Quán, Lý Nhan, Chu Diến… hại nước hại dân. Tống Khâm Tông bèn hạ lệnh bắt giết Vương Phủ, Lý Nhan, Chu Diến, và lưu đày Đồng Quán, các con Sái Kinh (Sái Tiêu, Sái Du).
Nhưng các đại thần chưa hết bất bình, tiếp tục đòi xử tử Sái, Đồng. Khâm Tông bèn hạ lệnh cho người đuổi theo giết Đồng Quán. Riêng Sái Kinh được ban đặc ân, chỉ bị đi đày ở Lĩnh Nam. Khi nhận lệnh biếm chức, Sái Kinh đang ở Bặc châu. Trên đường đi lưu đày, dân địa phương oán hận Sái Kinh làm nhiều điều ác, nên đóng cửa giấu thực phẩm không bán, cả ngàn người chặn đường mắng chửi; còn quan địa phương thì xua đuổi bắt phải đi đường nhỏ.
Khi Sái Kinh đến Đàm châu, vì không tìm được chỗ nghỉ nên phải tạm lưu ở chùa Đông Minh và qua đời tại đây, thọ 81 tuổi. Hoàn cảnh Sái Kinh lúc chết thảm hại vô cùng. Không có quan tài, người nhà mang xác Kinh gói vào vải xanh cũ mà dân nghèo thường dùng khi chôn cất. Sái Kinh bị xem là một trong những tội nhân hàng đầu gây ra sự suy vong của nhà Bắc Tống. Cái kết thảm hại này chính là sự báo ứng cho những việc làm ác độc của họ Sái khi còn quyền thế.