Theo Tổ chức Ung thư toàn cầu, với gần 25.000 trường hợp mới phát hiện, ung thư vú vượt qua ung thư gan, dẫn đầu về số ca mắc mới tại Việt Nam. Trước đây, ung thư vú xếp thứ nhất về số ca mắc mới ở nữ giới, nếu tính chung cả hai giới thì đứng sau ung thư gan hoặc phổi.
Tại Việt Nam, ung thư vú chiếm gần 29% tổng số ca ung thư ở nữ giới, tức gần 3 phụ nữ mắc ung thư thì có một ung thư vú. Bệnh xuất phát từ sự biến đổi của tế bào tuyến vú, tạo thành khối u có thể xâm lấn tại chỗ và di căn đến các cơ quan khác, với các yếu tố nguy cơ như tuổi tác, di truyền, tiền sử bệnh và lối sống.
Theo bác sĩ Thành, bệnh nhân ung thư vú có tỷ lệ sống cao, lên đến hơn 90% nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân đến viện ở giai đoạn muộn khiến việc điều trị phức tạp hơn.
Ung thư vú giai đoạn sớm dấu hiệu không rõ ràng, chủ yếu phát hiện qua tầm soát. Giai đoạn hơi muộn hơn, bệnh thường biểu hiện với khối cứng không đau, không di động ở vùng ngực, tiết dịch bất thường ở núm vú. Một số yếu tố nguy cơ ung thư vú là người trên 50 tuổi, gia đình có người mắc ung thư vú, hút thuốc lá và uống rượu bia, thừa cân béo phì, tiếp xúc với bức xạ, sử dụng liệu pháp thay thế hormone...
Bác sĩ khuyến cáo phụ nữ từ 40 tuổi trở lên thuộc nhóm nguy cơ trung bình (không mang đột biến gene nguy cơ ung thư vú, chưa từng xạ trị vùng ngực, chưa từng mắc ung thư vú) nên tầm soát mỗi năm 1-2 lần. Phụ nữ từ 55 tuổi trở lên nên chụp nhũ ảnh tầm soát hai năm một lần. Người thuộc nhóm nguy cơ cao như gia đình có người thân mắc bệnh, có đột biến gene... cần tầm soát sớm hơn theo hướng dẫn của bác sĩ.
Việc tầm soát ung thư được thực hiện bằng các phương pháp như khám lâm sàng, siêu âm màu tuyến vú, chụp nhũ ảnh (X-quang tuyến vú) hoặc MRI với thuốc cản từ thế hệ mới, giúp bác sĩ phát hiện, sàng lọc và đánh giá chính xác những tổn thương ở tuyến vú.
Bên cạnh đó, bác sĩ còn sử dụng phương pháp sinh thiết khối u để có chẩn đoán mô học, bao gồm: sinh thiết mở, FNA, sinh thiết u có định vị kim... trong đó sinh thiết vú có hỗ trợ chân không (Vaccuum Assites Breast Biopsy - VABB) có ưu điểm lấy được nhiều mẫu mô hơn chỉ với một lần đâm kim. Đồng thời, kỹ thuật này giúp nhanh chóng lấy trọn các tổn thương chỉ trong một thủ thuật duy nhất với sẹo mổ khoảng 6mm.
Theo BS.CK2 Trần Thị Yến Uyên, Khoa Ung bướu Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn, điều trị ung thư ngày nay được thực hiện theo phương thức cá thể hóa bệnh nhân, đa mô thức trên từng trường hợp cụ thể. Trước khi tiến hành điều trị các trường hợp có chỉ định đoạn nhũ, bác sĩ sẽ tư vấn và lên kế hoạch phẫu thuật tái tạo vú nhằm xóa bỏ mặc cảm khiếm khuyết cơ thể. Bệnh nhân ung thư vú chưa có con được khuyến cáo trữ trứng trước khi điều trị để tăng cơ hội có con sau này.