Đất nước Trung Hoa với lịch sử ra đời và phát triển lâu đời nhất thế giới, trải dài trong 5.000 năm. Tương truyền, người sáng tạo ra chữ Hán tên là Thương Hiệt, ông được xem là tổ tiên của loại người và giữ chức Sử Quan giúp Hoàng đế ghi chép sử sách truyền lại cho đời sau. Nhờ đó mà kể từ thời khai thiên lập địa, người Trung Quốc đã gắn liền chặt chẽ với lịch sử.
Nhận thức được tầm quan trọng của lịch sử đối với sự tiếp nối và phát triển văn hoá. Bằng cả tâm huyết lẫn trí tuệ, người Trung Quốc đã ghi lại một cách rất trung thực các sự kiện lịch sử qua bộ Sử Ký đầu tiên cho đến 24 bộ sử của các triều đại sau đó.
Sử ký hay Thái sử công thư là cuốn sách của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc trong hơn 3000 năm từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống dưới sự trị vì của Hán Vũ Đế.
Vì là văn bản lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, nên nó ảnh hưởng cực lớn tới việc chép sử và văn chương Trung Quốc sau này. Tư Mã Thiên được so sánh với Herodotus ở phương tây, và tập Sử Ký được so sánh với cuốn Histories.
Để làm nên những quyển sử kí ấy, thời Trung Quốc cổ đại lập ra tước vị "Sử quan", những người nhậm chức vị ấy sẽ dùng toàn bộ thời gian của mình chỉ để ghi chép sự kiện.
Trong sách Hán Thư có đề cập: "Tả sử ghi lời nói, hữu sử ghi sự việc" – nghĩa là tất cả lời nói và việc làm của Hoàng đế sẽ được các sử quan cánh tả và cánh hữu lưu lại.
Các vị sử quan lúc nào cũng có mặt bên cạnh Hoàng đế; vô hình chung cũng tạo ra một áp lực vô hình khiến các bậc đế vương rất thận trọng để tránh phát ngôn khinh suất; ảnh hưởng đến Triều đình, thần dân và cả thế hệ mai sau.
Dưới chế độ quân chủ ngày xưa, triều đình Trung Hoa có một biệt lệ: Người viết sử (sử quan) làm việc độc lập, không tuân theo các chỉ thị của Hoàng tộc. Nguyên tắc này được áp dụng nhằm bảo đảm tính khách quan của sử sách, không phụ thuộc vào ý muốn của người đương quyền.
Vì vậy có một nguyên tắc bất di bất dịch là: Hoàng đế không được phép đọc những gì sử quan ghi lại. Các bậc minh quân đều tôn trọng nguyên tắc này, nhưng trong lịch sử vẫn có một vài trường hợp ngoại lệ.
Theo sách Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang thời Tống ghi chép, Đường Thái Tông đã từng yêu cầu sử quan Trữ Toại Lương cho xem lại quốc sử viết về sự kiện Huyền Vũ Môn.
Nhưng Trữ Toại Lương đã nói rằng: "Thưa bệ hạ, từ cổ chí kim Thần chưa thấy Thiên tử nào được xem lại các ghi chép lịch sử về mình".
Đường Thái Tông hỏi: "Khanh đã ghi chép lại tường tận những việc mà Trẫm đã làm đúng không?".
Trữ Toại Lương đáp: "Thưa bệ hạ, đó là trách nhiệm của thần".
Một vị quan bên cạnh nói thêm vào: "Bẩm bệ hạ, Thiên tử là vua của một nước. Những việc lỗi lầm của vua là minh bạch như ban ngày, kể cả các sử quan không ghi chép lại thì thiên hạ đời đời vẫn nhớ".
Tuy bị từ chối và được các thần tử khuyên răn, nhưng Đường Thái Tông vẫn không từ bỏ ý định đọc những ghi chép về sự kiện Huyền Vũ Môn.
Sự kiện Huyền Vũ Môn là sự kiện Đường Thái Tông lập mưu sát hại những người anh em máu thịt là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát trong việc đấu đá quyền lực. Dưới cái nhìn thông thường thì đây là một vết nhơ trong sự nghiệp của ông, nhưng nhìn toàn cục chính trị của nhà Đường lúc bấy giờ thì ông không còn cách nào khác.
Sau này, khi Phòng Xuân Linh lên làm Sử quan, Đường Thái Tông một lần nữa yêu cầu được xem lại sử sách. Ban đầu, lời đề nghị của Đường Thái Tông bị từ chối. Nhưng sau đó đã được Phòng Xuân Linh đồng ý.
Phòng Xuân Linh vốn là một hiền thần, ông ngại đời sau nghĩ xấu về vị minh quân nên tránh không ghi chi tiết tương tàn huynh đệ. Đường Thái Tông xem quốc sử xong và yêu cầu phải ghi đúng sự thật, đồng thời lược bỏ bớt những lời thừa thãi không liên quan.
Nhà vua hoàn toàn không có ý định xoá bỏ sự kiện Huyền Vũ Môn ra khỏi sử sách, mà chỉ là "uốn" lại cho thẳng ngòi bút sử gia.
Khoảng 200 năm sau đó, lại có thêm một vị Hoàng đế muốn xem các ghi chép viết về mình, đó là vua Đường Văn Tông. Đương nhiên, chiểu theo luật lệ thì đề nghị của ông đã bị các sử quan từ chối.
Đường Văn Tông đã chất vấn rằng: "Tại sao trước đây tiên đế Đường Thái Tông được đọc, nhưng Trẫm lại không được".
Viên sử quan trả lời: "Thưa bệ hạ, việc để Tiên Đế xem ghi chép sử sách là đã vi phạm luật lệ xưa nay. Sử sách cần phải đảm báo sự khách quan, minh bạch. Nếu các vị Thiên tử đều được quyền xem ghi chép về mình thì đồng nghĩa các sử quan sẽ không thể ghi chép lịch sử một cách trung thực nữa. Như vậy làm sao hậu thế có thể tin tưởng sử sách, tin tưởng tiền nhân. Việc đó là không thể được".
Hai sự việc trên của vua Đường Thái Tông và Đương Văn Tông đều được ghi lại trong "Tư trị thông giám". Các hoàng đế thời kỳ sau thường đọc sách này để nắm rõ các sự kiện xảy ra trong quá khứ cũng như các cách thức trị vì giang sơn xã tắc của tiên đế, dựa vào đó mà rút ra bài học từ lịch sử để có được chính sách cai trị tốt hơn.
Vào thời đại của vua Tống Triết Tông (1086-1094), có một vị sử quan tên là Lã Đào. Một lần, viên tể tướng gặp riêng Hoàng đế và kiến nghị muốn bãi bỏ một vài chức tước không quan trọng trong triều đình, trong đó có chức sử quan.
Lã Đào nghe vậy đã thẳng thắn mà rằng: "Đại nhân yêu cầu bệ hạ cách chức thần tử là điều không hợp đạo lý. Lịch sử vốn là để kết nối tổ tiên và hậu thế, là cốt lõi trường tồn của dân tộc Hoa Hạ, cớ sao lại muốn bãi bỏ chức sử quan? Rồi mai đây lịch sử sẽ được truyền tụng như thế nào? Ngài mang danh là một tể tướng của triều đình nhưng lại muốn tuyệt mật khi nói chuyện với hoàng thượng, ắt hẳn phải có sự tình trong đó".
Theo sách "Tống sử", Hoàng đế Tống Triết Tông sau khi nghe Lã Đào nói xong liền ban hành một sắc lệnh, quy định rằng các cuộc thảo luận giữa các triều thần, giữa hoàng đế và thần tử đều phải có viên sử quan chép lại tường tận, chi tiết. Không cho phép việc thiếu minh bạch xảy ra, ảnh hưởng đến sự thật.
Có thể thấy rằng "cây ngay không sợ chết đứng"; chỉ có những tên hôn quân hay kẻ tiểu nhân âm mưu đen tối, lòng dạ không ngay chính thì mới lo lắng về những điều sử quan ghi chép lại.