Trình bày tại hội thảo, ThS. Phạm Minh Trường - Trưởng phòng Kỹ thuật – Viện phim Việt Nam cho biết, hiện kho phim của Viện đang lưu giữ gần 80.000 cuốn phim nhựa. Nhằm mục đích lưu trữ, bảo quản lâu dài các tư liệu trên đồng thời khai thác, phổ biến rộng rãi tới công chúng, Viện Phim Việt Nam đã có kế hoạch, lộ trình nhằm số hóa các tư liệu quý giá đó.
Phim đã số hóa giúp cho các công tác tra cứu đơn giản, thuận tiện hơn, tăng khả năng truy xuất tìm kiếm thông tin ở bất kỳ đâu vào bất cứ thời điểm nào một cách nhanh chóng, dễ dàng; thuận lợi trong việc chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin; có khả năng chỉnh sửa, tái sử dụng hoặc chuyển đổi sang loại dữ liệu số khác.
Viện Phim Việt Nam cũng tiến hành số hóa các tài liệu cấp 2 nhằm lưu trữ bảo quản an toàn, lâu dài các tư liệu gốc, hạn chế tối đa việc đưa tài liệu gốc ra phục vụ, đồng thời việc lưu trữ trên bản số hóa giúp cho các nhà nghiên cứu, người yêu mến điện ảnh dễ dàng tra cứu, tiếp cận tài liệu. Nhờ đó, phát huy tối đa công tác phổ biến, quảng bá các tư liệu lưu trữ.
Tuy nhiên, theo ông Phạm Minh Trường, các trang thiết bị tuy được đầu tư nhưng đến nay phần lớn đã lạc hậu. Một số linh kiện của máy quét phim xuống cấp gây ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ thực hiện công việc. Máy quét phim được sử dụng từ lâu nhưng đến nay chưa được bảo trì do máy là thiết bị chuyên dụng, được nhập khẩu hoàn toàn từ các nước phát triển.
Việc bảo trì, sửa chữa phải thuê chuyên gia nước ngoài, tuy nhiên chi phí cho công việc trên rất lớn. Hãng sản xuất máy quét phim đã thay đổi chủ nhiều lần nên việc bảo trì, bảo dưỡng, thay thế linh kiện thiết bị gặp rất nhiều khó khăn. Công tác lưu trữ và quản lý dữ liệu vẫn còn thủ công do chưa có hệ thống lưu trữ dữ liệu chuyên dụng cũng như phần mềm quản lý dữ liệu hiện đại, phù hợp với đặc thù công việc.
Phim nhựa, tài liệu cấp 2 vẫn tiếp tục được bổ sung hàng năm, số lượng số hóa lớn tuy nhiên nhân lực, trang thiết bị chưa đáp ứng đủ. Kho phim tại Viện Phim Việt Nam đang lưu trữ gần 80.000 cuốn phim, trong khi hàng năm Viện chỉ số hóa được từ 600-700 cuốn phim. Với trang thiết bị và nhân lực hiện tại, để số hóa được hết kho phim đòi hỏi thời gian vô cùng lớn.
Tính bảo mật dữ liệu của tư liệu số hóa cũng là vấn đề cần được đặt ra, việc sao chép, chia sẻ dữ liệu, để lọt thông tin hoàn toàn có thể xảy ra, thậm chí có thể chỉ do vô ý của cá nhân trong đơn vị, nếu không được kiểm soát chặt chẽ.
Ông Nguyễn Đức Kiên - Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cũng cho biết, trong tổng số gần 20.000 hiện vật đang được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam lưu giữ cho đến năm 2022 vẫn được quản lý, khai thác một cách thủ công bằng hệ thống sổ đăng ký hiện vật, sổ phân loại hiện vật các loại.
Những hiện vật này một phần đã có đủ thông tin cơ bản khi đăng ký, tuy nhiên vẫn còn hiện vật đang thiếu thông tin hoặc thông tin chưa chính xác, chưa thống nhất giữa sổ đăng ký và thông tin giới thiệu trên trưng bày khiến cho công tác quản lý, khai thác gặp nhiều khó khăn.
Xác định cơ sở dữ liệu về hiện vật là nền tảng của công tác số hoá, là xương sống để vận hành và vận hành có hiệu quả phần mềm quản lý hiện vật, các cán bộ chuyên môn của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã tiến hành thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu về hiện vật từ hồ sơ, tài liệu, sổ đăng ký hiện vật.
Các thông tin (dữ liệu) này sau khi được tổng hợp sẽ tiến hành kiểm tra, đối chiếu và chọn lọc để có được dữ liệu chuẩn xác nhất và tiến hành nhập vào phần mềm quản lý hiện vật theo trình tự các trường thông tin đã xây dựng sẵn trên phần mềm quản lý hiện vật theo yêu cầu khai thác, sử dụng và quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Quản lý thông tin và dữ liệu trong ngành VHTTDL vẫn còn nhiều hạn chế
ThS Lê Mạnh Hùng - Trung tâm CNTT, Bộ VHTTDL cho biết, ngành VHTTDL thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực như di sản, văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch, bản quyền tác giả, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, văn hóa cơ sở và các hoạt động giải trí... Đây là một ngành mang tính đa dạng, bao quát, có sức lan tỏa rộng và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác.
Theo số liệu khảo sát năm 2023, trong 25 đơn vị khảo sát trực tiếp phần lớn các đơn vị vẫn chưa xây dựng cơ sở dữ liệu mà chủ yếu dữ liệu lưu trữ dạng thô, vật lí như giấy, văn bản, tệp, ổ cứng, chưa được số hóa. Trong 60 đơn vị khảo sát gián tiếp, có 58 đơn vị đã ứng dụng phần mềm dùng chung của Bộ vào trong công việc quản lý, điều hành như: quản lý thông tin CCVC, quản lý điều hành tác nghiệp gồm hệ thống voffice và hệ thống email... Nhiều đơn vị lưu trữ dữ liệu dạng thô như tài liệu, văn bản, sách, báo, đĩa DVD, đĩa CD, đĩa cứng, USB và một số dữ liệu ở dạng số hóa...
Từ những số liệu thống kê thực tế cho thấy công tác quản lý thông tin và dữ liệu trong ngành VHTTDL vẫn còn nhiều hạn chế, do đó cần xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung để lưu trữ và sử dụng.
Trình bày tham luận về triển khai công tác bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ đối với các hệ thống thuộc ngành VHTTDL, ThS. Phạm Tuấn An - Cục An toàn Thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, hiện nay một số sự cố an toàn thông tin mạng, đặc biệt là các sự cố tấn công mã độc mã hóa tống tiền (ransomware) đã gây thiệt hại và làm gián đoạn dịch vụ trực tuyến của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, năm 2024, hàng loạt các vụ các vụ tấn công mã hóa dữ liệu đòi tiền chuộc: VNDirect, PVOil, VN Post gây thiệt hại hàng trăm tỷ VNĐ.
Theo ông Phạm Tuấn An, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc quản trị dữ liệu và bảo mật dữ liệu, giúp các tổ chức quản lý và sử dụng dữ liệu một cách hiệu quả và an toàn. Vai trò chính của công nghệ trong quản trị dữ liệu gồm: Tự động hóa quy trình; Bảo mật dữ liệu; Quản lý chất lượng dữ liệu; Phân tích dữ liệu; Tuân thủ quy định và Tích hợp dữ liệu.
Theo đại diện Cục An toàn Thông tin, để tăng cường hiệu quả công tác bảo đảm an toàn thông tin và phục hồi nhanh hoạt động sau sự cố, bên cạnh việc triển khai đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành công văn số 2516/BTTTT-CATTT ngày 27/6/2024, hướng dẫn một giải pháp tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống thông tin, hướng dẫn triển khai 6 giải pháp trọng tâm.
Cụ thể, định kỳ thực hiện sao lưu dữ liệu ngoại tuyến "offline"; Triển khai giải pháp để sẵn sàng phục hồi nhanh hoạt động của hệ thống thông tin khi gặp sự cố, đưa hoạt động của hệ thống thông tin trở lại bình thường trong vòng 24 tiếng hoặc theo yêu cầu nghiệp vụ.
Triển khai các giải pháp, đặc biệt là giải pháp giám sát an toàn thông tin, để ngăn ngừa, kịp thời phát hiện sớm nguy cơ tấn công mạng đối với cả 3 giai đoạn: xâm nhập vào hệ thống; nằm gián điệp trong hệ thống; khởi tạo quá trình phá hoại hệ thống.
Phân tách, kiểm soát truy cập giữa các vùng mạng và chuyển đổi, nâng cấp các ứng dụng, giao thức, kết nối lạc hậu, không còn được hỗ trợ kỹ thuật sang phương án sử dụng các nền tảng, ứng dụng để giảm thiểu nguy cơ tấn công mạng leo thang.
Tăng cường giám sát, quản lý các tài khoản quan trọng, tài khoản quản trị để phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại trong trường hợp kẻ tấn công có được tài khoản quản trị. Rà soát, khắc phục và không để xảy ra các lỗi cơ bản dẫn đến mất an toàn hệ thống thông tin.