Chắc chắn phải có một lý do bí ẩn nào đó nên Andras mới dẫn An tới khám phá Szentendre vào buổi tối như thế này. Vùng đất nằm trên đường cong quyến rũ của dòng Danube xanh từ lâu đã âm thầm gọi cô. Nhưng phải qua hơn ba tháng sống ở Budapest, An mới tới Szentendre, một thị trấn cổ nghìn tuổi từng kết nghĩa với thành phố Hội An ở đất nước quê hương cô.
An tới Budapest không phải để du lịch, tất nhiên rồi. Cô sống và viết ở đây, lúc này, trong khi say đắm yêu một chàng trai của Budapest. Trong trải nghiệm đặc thù của một nữ văn sĩ du mục, cô từng sống ở nhiều thành phố khác nhau khắp châu Âu, nhưng không ở đâu đặc biệt yêu thương sâu sắc như ở Budapest. Cô đã dừng chân tại Budapest lâu hơn tất cả các nơi khác, tận hưởng những trải nghiệm sống thú vị bên một chàng trai phiêu lưu và luôn tạo bất ngờ. Song song đó, việc viết tái hiện một đời sống khác trong văn học, cho phép cô thám hiểm sâu hơn vào tầng sống tâm linh của vùng đất nơi đây.
Andras chìa tay cho An nắm lấy. Con phố hẹp và dốc, lát đá xanh gập ghềnh như thách đố bước chân trong ánh sáng lờ mờ của đèn đường. Ai nấy đều phải đi thật chậm trên những con phố cổ của Szentendre, nếu như không muốn vấp ngã. An gần như đánh đu vào cánh tay khỏe khoắn của Andras. Chẳng phải cô sợ ngã, mà là cô muốn nũng nịu anh. Cô gần như tựa hẳn vào tấm thân ấm áp rắn chắc ấy mà nương từng bước theo anh, chẳng thèm nhìn xuống đường. Cô ngửa mặt nhìn lên các dãy đèn lồng treo ngang vắt qua đường, tỏa ánh sáng dìu dịu qua những chao đèn vải hoa xinh đẹp màu pastel. Thanh tao và quyến rũ. Nó nửa nồng nàn mời gọi, nửa ẩn giấu bí hiểm Đông phương khiến người ta nôn nao tò mò như ánh đèn lồng đỏ ở Hội An.
Nghe rõ cả tiếng bước chân thấp thỏm của họ trong đêm. Tuyệt không có tiếng động cơ nào, không bóng khách du lịch, dường như chỉ có Andras nắm tay cô gái Việt nhỏ bé đi loanh quanh những con phố hẹp ở thị trấn cổ này. Họ dừng lại trên một đỉnh dốc, trước một nhà nguyện cổ kính với kiến trúc baroque in rõ nơi đường lượn cong điển hình ở đầu hồi. Nhà nguyện đứng kiêu kỳ trong ánh sáng trắng nhạt, An tựa người vào Andras, lặng ngắm khối kiến trúc tao nhã cao vời ấy. Chợt Andras chỉ xuống mặt đất:
- Em nhìn xem.
Một cái bóng thẫm dài đổ trên mặt đất, dính bên phải nó là một cái bóng mảnh, ngắn.
- Nhìn bóng em kìa - Andras nói - Trông như cái dẻ sườn của anh ấy nhỉ!
An lập tức tách ra khỏi Andras. Cô tiến lên ba bước, và kiễng chân, nhưng cái bóng của cô vẫn khá khiêm tốn.
Andras bước lên ôm choàng lấy cô từ phía sau. Lúc này trên mặt đất chỉ còn bóng anh.
- Anh đã nuốt chửng em rồi! - Andras kêu lên.
- Ác thật đấy! - An quài tay ra sau đấm nhẹ vào lưng Andras, nhưng cô không muốn tuồn ra khỏi vòng tay anh, trời ạ, vòng tay quá ấm.
- Anh thích bóng tối đồng lõa này. Nó nhập nhằng nhưng nó làm được một điều thật kỳ diệu cùng với ánh sáng từ ngọn đèn, đó là khiến chúng ta hòa nhập làm một hoàn toàn. Hai thực thể hóa thành một, đồng nhất.
- Về mặt tinh thần, chúng ta cũng đã là một kể từ khi yêu nhau. An nói: Vậy sự đồng điệu về tâm hồn của chúng ta, được quán chiếu trong chiều không gian nào, với ánh sáng hay bóng tối?
- Câu hỏi của em quá hay, nhưng anh không trả lời thật chính xác lúc này được. Có thể đó là chiều không gian tâm linh.
Minh họa của họa sĩ Trịnh Tú.
- Ồ, tâm linh ư? Vậy sự đồng điệu hoạt động bằng cơ chế nào?
- Bằng sóng não. Ví như khi em gặp nguy hiểm, anh sẽ run sợ. Khi em nghĩ về anh, em nhớ anh, tim anh sẽ xao động như mặt sông Danube nổi sóng khi gặp gió...
- Anh đang nói với em theo tư duy của nhà khoa học, hay của nhà thơ đấy, Andras? - An đưa tay lên nghịch cổ áo Andras, hỏi.
Nhà thơ Andras không trả lời, mà cúi thấp xuống môi cô.
Họ ăn tối trong một quán đặc sản cá gần quảng trường trung tâm Szentendre. Quán thực hấp dẫn với ánh nến lãng mạn hắt ánh sáng nhún nhảy trên những nhạc cụ cổ treo rải rác trên tường và trần nhà. Những chiếc kèn đồng đủ các cỡ ngầm khoe đường cong phiêu diêu, những chiếc violon thanh tao điệu đà, một cây đàn hạc lớn đứng góc quán nhưng dáng vẫn cực kỳ thanh nhã. Tất cả chúng cùng im lặng, một khoảng lặng đáng ngờ trước khi trào lên khúc hòa nhạc cao vút sôi nổi mãnh liệt nhất.
Quán cá ấm sực mùi xúp cá nấu ớt chuông quen thuộc. Cá là món mà Andras có thể ăn cả đời không chán. Có lẽ đó là một trong những nguồn thực phẩm khiến anh mạnh khỏe, nhiệt thành, và thông minh, tinh quái đáng nể. An cũng dần làm quen với thú vui ẩm thực này của anh. Cô tập trung vào món ăn của mình, để mặt lưỡi cảm nhận chậm rãi vị ngọt của cá và các gia vị đặc biệt.
Vị ớt ngọt, ớt cay đặc trưng trong nghệ thuật ẩm thực truyền thống Hungary cứ dần thẩm thấu sâu trong vị giác.
- Tất cả thực phẩm trong quán này, đều được nuôi trồng hữu cơ - Andras nói, sau khi uống một ngụm vang trắng, loại vang hiếm hoi từ nho trồng trên cánh đồng nho duy nhất của Szentendre. - Em có thể yên tâm rằng chúng ta sẽ đạt đến tuổi 100 khi duy trì lối sống hữu cơ, thực phẩm hữu cơ.
- Vậy làm thế nào để có thể luôn suy nghĩ theo lối hữu cơ? - An ngẩng lên hỏi anh.
- Chân thực với chính mình. Nghĩ, nói, hành động là một.
- Kể cả những ý nghĩ xấu, ý định xấu? - An trêu chọc anh.
- Đó là vấn đề của lựa chọn. Andras hỏi lại: Khi em thấy con sâu bám trên lá cây, em sẽ bắt sâu hay để mặc nó ăn lá?
- Chắc em sẽ chọn làm thơ. An thoái lui: Như anh, sứ mệnh là làm những vần thơ tuyệt nhất chứ không để tâm trí vào những việc vô nghĩa. Và hy vọng thi ca sẽ khiến thế giới tốt hơn lên.
Andras lái xe vun vút xuyên cánh rừng đêm. Con đường vắng giữa rừng khiến An có cảm giác mình đang bị màn đêm nuốt chửng. Cô thấy hồi hộp kỳ lạ, có lẽ vì sức cám dỗ của bóng đêm, của rừng, và những điều cô chưa biết rõ trong bóng đêm nơi đây.
Đang lúc đó, anh chợt cho xe giảm tốc độ.
- Hình như phía trước là một xe cảnh sát - Andras hạ giọng: Hy vọng là họ không để ý chúng ta. Khi nãy, anh đã uống một ly vang. Anh nghĩ là anh lái xe vẫn ổn, em có nghĩ thế không?
- Em thấy anh rất ổn, nhưng có thể cảnh sát nghĩ khác. - An hơi nhỏm người lên: Có bao giờ anh bị cảnh sát tóm vì lái xe trong lúc có chút hơn men?
- Ở Hungary này thì chưa bao giờ. Hungary không chỉ đẹp, mà còn khá dễ thở, bao dung với những kẻ tinh quái như anh, vì vậy mà anh chọn sống ở đây. Nhưng thời anh còn sống ở nước Đức thì có đôi lần bị phạt do đậu xe ở nơi không được phép và lái xe quá nhanh, quá nguy hiểm. Anh không uống rượu bia khi phải lái xe. Lần này anh uống là vì em, ở bên em, anh vui quá và chẳng biết mình sẽ làm gì tiếp theo, chẳng quan tâm hậu quả.
- Anh đổ lỗi cho em ư?
- Em không phải gánh trách nhiệm cho lỗi đó. Chỉ vì em quá quyến rũ và anh không kháng cự được, nên anh mắc lỗi. Anh tự nguyện dấn thân vào vùng cấm, lặp lại sai lầm của Adam. Mọi việc đều do chính mình mà thôi, từ khi có ý thức anh đã nghĩ theo cách đó rồi. Ồ, may quá, cảnh sát đã rẽ sang đường khác - Andras nói, tăng tốc xe.
- Andras, anh dừng xe tại chỗ nào đó, cho em đi dạo trong rừng một lúc được không? - An quay sang hỏi Andras, đầy hy vọng. Cô không cưỡng nổi sự cám dỗ của rừng đêm. Chưa bao giờ cô vào rừng ban đêm, nhưng có Andras bên cạnh, cô muốn trải nghiệm điều này.
Đi dạo trong rừng ban đêm thì không được bình thường cho lắm, nhưng tùy em, chúng ta đều là những kẻ bất thường. Trong khu rừng ở Szentendre có nhiều lối đi dạo hấp dẫn, thậm chí có vài điểm tham quan, nhưng mấy lần trước anh chỉ đi ban ngày. Ban đêm mọi dịch vụ không hoạt động. Rừng đêm không có người. Chỉ có thú hoang, hoặc lũ quỷ.
Andras dừng xe ở một chỗ đậu xe ven đường. Họ tìm được một lối đi dẫn vào rừng sâu. An tò mò nhìn hút vào phía bên phải lối đi, ánh sáng ngọn đèn đường chỉ đủ soi quá hai gốc gây sồi già, sau đó là bóng đêm tĩnh mịch đáng ngờ, bóng đêm nuốt chửng cả cánh rừng. An ngửi thấy mùi đất ẩm, lá mục lẫn mùi hơi nước. Cái lạnh càng lúc càng thấm sâu khi họ đi xa hơn vào phía tâm rừng. Đột ngột, những cây sồi, cây dẻ non dường như chuyển động run rẩy trong đợt gió lạnh đẫm hơi nước.
Chà, có vẻ như trời muốn mưa. -Andras nói, ngẩng mặt nhìn lên bầu trời đêm.
Như đáp lại câu nói của anh, đột ngột, có tiếng ào ào đe dọa chạy từ phía sau lưng họ ập đến, loạt mưa đá đầu tiên ném xuống lối đi rải sỏi, lẫn vào những viên sỏi, óng ánh kỳ lạ trong ánh sáng từ ngọn đèn đường phía xa hắt lại.
- Ôi, mưa đá kìa. - An thốt lên, nửa thích thú, nửa lo sợ nhìn những viên đá băng lấp lánh như kim cương dưới ánh đèn. Cô chụp vội mũ áo khoác lên đầu.
Ở đây, loạt những hạt mưa đầu tiên luôn là hạt đá băng nhỏ. Mưa ôn đới mà, lạnh lắm, chúng ta phải nhanh nhanh tìm chỗ trú thôi.
Nhìn thấy một tấm bảng giới thiệu về khu rừng có mái che, Andras kéo An chạy lại trú tạm, chờ cơn mưa ngớt.
An tò mò nhìn lớp đá băng vụn tụ lại thành từng mảng dưới giọt gianh mái che tấm bảng quảng cáo. Cô đưa mũi giày gạt lớp đá băng, hình như chúng không tan nổi. Trời quá lạnh, cái lạnh mỗi lúc một sâu. An so vai lại, bắt đầu hơi run.
Andras cởi áo khoác của anh, choàng lên vai An.
Em mặc thêm tấm áo này sẽ không run nữa. Mưa chưa biết lúc nào tạnh, càng mưa càng lạnh, anh phải chạy về chỗ đậu xe rồi đánh xe lại đây đón em. Em không được đi đâu nhé. Đứng đây đợi anh, có gì thì gọi điện thoại cho anh.
Em để điện thoại trong ba lô ở xe mất rồi! - An nói.
Vậy ư? Nhưng không sao. Anh sẽ trở lại nhanh thôi. - Andras nói rồi vội chạy đi.
Còn lại một mình, An ngồi thụp xuống, đưa tay bốc vụn đá băng dồn đống dưới giọt gianh. Lập tức ngón tay cô tê cóng. An chùi tay vào gấu quần rồi đứng lên, thục cả hai tay vào túi áo của Andras. Chiếc áo khoác chống thấm khá dày và ấm áp, cô đưa tay kéo cao cổ áo che môi, mũi, hít sâu làn hơi ấm cơ thể anh còn vương trên cổ áo. Cô chợt ân hận là đã đồng ý mặc áo của anh, để anh lao vào cơn mưa lạnh trong lúc trên người chỉ mặc chiếc áo thun cao cổ. Anh sẽ ngấm nước mưa và cảm lạnh mất. Ôi trời đất! Sao cô lại phản ứng chậm như thế chứ.
Đúng lúc đó, cô chợt rùng mình, ớn lạnh. Cảnh tượng trước mắt đột ngột hiện ra, kinh hoàng. Sau ánh chớp và tiếng sét khô khốc xé rách màn đêm, làn mưa trắng nhờ nhờ đan nhì nhằng trước một khuôn mặt người rừng lông lá đen kít, nham nhở, cái miệng rộng há ra với hàm răng lởm chởm. Một tiếng nổ ngắn vang lên và ngọn đèn đường vỡ nát. Tất cả chìm trong bóng tối. An thét lên nhưng tiếng thét tắt lịm trong họng.
Một bàn tay hộ pháp chộp sượt qua vai phải An, cô rú lên và chạy trốn. Cô nháo nhào chạy trong bóng tối thâm u của rừng. Những hạt nước lạnh buốt xiên thẳng qua da mặt, da tay cô, luồn vào mạch máu, chạy thẳng đến tim. Những thân cây sồi, cây dẻ to thô ráp liên tiếp va vào cô, khiến cô ngã, vùng dậy, chạy rồi lại ngã.
- Andras! - An thét gọi tên anh trong vô vọng.
Máu cô đang dần đặc lại, đóng băng, tứ chi tê dại, mất cảm giác. An cuống cuồng nhận ra bóng đen ma quái khổng lồ đang lao về phía cô. Cô nhỏm lên chạy trốn nhưng lại ngã nhào xuống đất, đôi chân cô đã tê liệt hoàn toàn. Chính trong khoảnh khắc trượt ngã, một ý nghĩ sáng lóe lên trong đầu An, đè lên cả nỗi hoảng loạn, rằng nếu cô chết, thì hình ảnh cuối cùng Andras nhớ về cô sẽ là An lọt thỏm trong tấm áo khoác rộng màu lá dẻ non của Andras, như bóng cô lọt thỏm đồng nhất vào bóng anh khi họ đứng trước nhà nguyện Szentendre, trong trò nhập nhằng của bóng tối và ánh sáng. Đó là một cái chết hoàn hảo, với cô.
Đó cũng là ý nghĩ cuối cùng của An trước khi mọi cảm nhận biến sạch.
Andras loay hoay mở nắp capô xe kiểm tra. Anh không thể nào khởi động xe chạy được. Anh giằng xé với ý nghĩ tiếp tục thử khởi động xe lại lần nữa, hay là chạy ngược trở lại rừng tìm An. Cái xe chết tiệt này lại khủng khỉnh đúng lúc cơn mưa rừng và cái lạnh đe dọa cô gái nhỏ của anh.
Andras khởi động xe lần nữa, vẫn vô ích. Anh lấy điện thoại gọi cứu hộ xe khẩn cấp, rồi lao vào rừng, chạy về phía An. Lòng anh bồn chồn lo lắng kỳ lạ. Mong là An vẫn đứng đó chờ anh. Anh đã rời cô bao lâu rồi? Có đến nửa tiếng không? Hy vọng là chiếc áo khoác của anh đủ giữ ấm cho cô. Andras vuốt nước mưa đang tràn trên mặt, chảy cả vào mắt anh cay xè. Chính anh cũng đang run, nhưng không phải vì mưa và cái lạnh ôn đới khắc nghiệt, anh đã quen với việc ở trần, luyện tập trong tuyết dày, nhưng cái lạnh này từ nỗi sợ sâu thẳm trong tim. Anh không rõ nó là cái gì, nhưng nó sâu thẳm, hãi hùng.
Quả nhiên, anh sựng lại, rơi thỏm vào bóng đêm, đúng chỗ bảng quảng cáo có mái che, nhưng An không ở đó, ánh sáng cũng biến mất.
An! An! An! - Anh tuyệt vọng thét gọi tên cô.
Chỉ có tiếng mưa thầm thì giá băng, âm âm đe dọa.
Andras quờ quạng trong bóng tối, khi va phải một gốc cây lớn, anh chợt nghĩ ra, lấy điện thoại bật đèn soi đường.
Anh đi theo linh tính mách bảo. Những mảng lá rừng dưới chân dường như dạt ra, hoặc xẹp xuống, dấu hiệu của An, và anh vội vã lần theo dấu hiệu đó. Càng đi, nỗi hoảng loạn càng lớn dần, anh tự trách mình đã bỏ cô lại một mình giữa rừng. Cô ấy còn chưa có chút thông tin hoặc hiểu biết nào về khu rừng này. Rừng đêm cám dỗ bao nhiêu, thì nguy hiểm bấy nhiêu. Họ đều đã biết rõ điều đó, mà vẫn bị hút vào bóng đêm, giống như đã cuồng dại lao vào tình yêu sét đánh, để cháy rụi.
Mắt anh chợt hút vào màu xanh lá dẻ non nổi trên thảm lá rừng mục màu nâu đất. Tấm áo khoác của anh, và An trong đó! Andras lao đến, quỳ xuống nâng cô gái nhỏ của anh lên. Cô tái nhợt, mắt nhắm nghiền, lạnh ngắt.
Andras điên dại hôn khắp mặt cô, như muốn trút cả sức sống, hơi ấm của anh cho cô. Nhưng cô không đáp lại. Cái lạnh và đêm rừng hầu như đã chiếm đoạt cô khỏi anh. Andras nhấc bổng cô lên, ôm chặt cô nơi ngực, và anh chạy, chạy khỏi bóng đêm bất trắc, chạy khỏi nỗi hoảng loạn mất mát, chạy khỏi cái bẫy cám dỗ của bóng đêm, thách thức sự ngạo mạn của con người.
Trong bóng tối, họ cần phải đồng nhất. Như cái bóng lớn của anh, ôm trọn trong mình cái bóng nhỏ của cô, trước nhà nguyện, và họ an toàn.
Nhưng An không muốn thế, cô ấy đã tự nguyện bước ra khỏi vùng an toàn, để trải nghiệm rừng đêm, để cái bóng nhỏ bé của cô ấy, lạc vào một vùng tối vô tận, bất chấp hậu quả. Một tâm hồn phiêu lưu hoang dã, nguyên thủy bậc nhất còn lại trên hành tinh này. Cô dấn thân, đưa chính mình vào tình huống tạo ra bởi cả Thượng đế và ma quỷ.
Nhưng Andras không muốn để An trôi lạc như thế, dù anh biết đó cũng là một khoảnh khắc bất tử. Anh chạy cuồng điên, với cô trên tay, chạy đua với chính mình, vượt qua cái bóng khổng lồ của đêm rừng, vượt qua đam mê chết ma quỷ của cô, để đưa cô trở lại với thế giới của anh, với khát vọng sống rực cháy của anh.