1. Hôm rồi tôi được mời đi xem vở kịch kể về thời Hà Nội trước năm 1954. Ngay màn dạo đầu để dựng lại không khí phố phường một thời, những người làm vở diễn này đã tạo ra cảnh các tiếng rao hàng đêm. Quả tình tôi thấy gai gai bởi một hạt sạn nhỏ khi cô diễn viên cất tiếng lảnh lót “ai trứng vịt lộn mua”. Đây là một câu rao do những người làm vở diễn này nghĩ ra chứ Hà Nội của tôi dạo đó chưa ai coi trứng vịt lộn là một món ăn.
Tôi nhớ những năm 1956, 1957, đầu làng Cổ Nhuế bên cạnh làng Chèm của tôi có một trường dành cho cán bộ miền Nam tập kết. Chừng dăm bữa, nửa tháng sau, làng Chèm quê tôi xuất hiện những anh cán bộ miền Nam, áo quần bà ba đen, mấy hôm đầu đội mũ phớt trắng, vài ngày sau thay bằng chiếc mũ nan. Anh cán bộ miền Nam tập kết cười rất tươi, và cũng rất hay lội xuống ruộng bắt rắn nước, vào làng mua trứng vịt về ấp dở. Rắn nước và trứng vịt ấp dở (các anh cán bộ miền Nam tập kết gọi là “hạt vịt lộn”) là hai món đánh chén (các anh ấy gọi là món nhậu) khoái khẩu. Làng tôi và dần dần cả Hà Nội, rồi miền Bắc biết ăn trứng vịt lộn từ đó.
Quê gốc tôi ở làng Chèm, nhưng vào những năm 1953, 1954, khi tôi 5 - 6 tuổi thì nhà tôi lại ở giữa phố Duy Tân (tức Hàng Bài ngày nay). Hơn 60 năm trôi qua, vẫn không thể xoá đi những gì tôi nhớ về Hà Nội thuở ấy. Vào những năm trước 1945, bà ngoại tôi vốn là chủ một nhà hàng bán mắm muối của cả khu vực Chèm và vùng lân cận. Mối cất hàng của bà tôi là các thuyền chum từ vùng Thanh - Nghệ mỗi khi gió nồm nam thổi là dong buồm ngược ra Hà Nội. Sau tao loạn một thời, 10 gian nhà ngói của bà tôi nằm bên Bến Ngự bị đốt sạch. Bà tôi quy tiên. Phải chăng đây chính là nguyên cớ mẹ tôi đưa tôi ra phố Duy Tân (?!). Vẫn giữ nếp buôn bán gia truyền nên kế sinh nhai của mẹ tôi dạo đó là buôn sỉ thuốc lào, chè mạn.
Nhiều tối mẹ cho tôi theo mẹ đi giao hàng. Những con đường xuôi về nhà thương Cống Vọng mới 7, 8 giờ tối đã vắng teo, hun hút như tưởng đến khôn cùng. Lác đác dưới ánh đèn điện đường đỏ đọc là những chiếc xích lô bò chậm chạp, trên đó là hình dáng uể oải, mệt mỏi của bác phu xe; những chiếc xe đạp vội vã của vài ba gã phu lít đi tuần đêm. Chỉ cần đi đến cuối phố Bà Triệu chạm đến hồ Thiền Quang đã thấy một sự hoang vu đến rợn người. Ban ngày, thảng hoặc tôi còn theo mấy anh học trò lớp nhất, lớp nhị (lớp ba, lớp bốn ngày nay) xuống bắt cà cuống hay tuốt trứng của chúng bám vào nhánh cỏ lác ven hồ, nhưng khi bóng đêm ập xuống thì khu vực hồ Thiền Quang trở thành nơi âm u, bí hiểm và rùng rợn đến ngay người lớn cũng không dám lai vãng. Dọc hè phố, những panô to hình chữ nhật vẽ lính viễn chinh Pháp, cái thì treo trên xà cột điện, cái thì dựng ở chân cột điện, hay góc phố. Một tay lính viễn chinh đầu đội mũ sắt, mặt đầy sát khí, hai chân khuỳnh khuỳnh trong tư thế chuẩn bị chạy, hai tay cầm ngang khẩu súng có gắn lưỡi lê đang lao về phía trước.
Chợ Đồng Xuân trở lại nhịp sống thường nhật sau ngày giải phóng Thủ đô, tháng 10/1954 (ảnh tư liệu). (ảnh: TTXVN)
2. Tôi ở phố Duy Tân những năm 1953, 1954, vào đận lên tuổi 5 lên 6. Bởi vậy mỗi khi nhớ về Hà Nội những năm tháng đó tôi chỉ nhớ đến những thú vui và những món quà Hà Nội một thời. Nhà tôi cách phố Tràng Tiền, Tràng Thi và Bờ Hồ chỉ vài ba trăm mét. Trước nhà lại có đường ray xe điện leng keng. Mẹ tôi vốn kỹ tính nên dặn cậu tôi trông tôi thật kỹ đừng để theo chúng bạn leo tàu điện. Một là hỏng người, hai là không an toàn. Thế là mỗi khi mẹ tôi đi vắng, cậu tôi nhãng đi là tôi lại lọ mọ đi ngược lên phía Bờ Hồ.
Lên Bờ Hồ, nơi tôi tha thẩn đầu tiên bao giờ cũng là quầy bán hoa tươi. Đó là một ki ốt được xây nghiêm chỉnh, chắc chắn bằng gạch luôn luôn quét vôi vàng tươi ở ngay hè ngã tư Tràng Tiền- Tràng Thi. Ngắm hoa một lúc tôi mới vòng ra Bờ Hồ phía sau quầy hoa tươi. Ở đó không biết bao nhiêu thứ hấp dẫn đang chờ đón một đứa trẻ như tôi.
Những quầy bán nước giải khát lưu động ven hồ. Trên chiếc xe đẩy có những chiếc giá gỗ đặt những lọ thuỷ tinh trắng xóa nước gạo, vàng nhạt nước cam, xanh lơ nước bạc hà…Thứ nào cũng chỉ một xu một cốc mà mát lịm, ngọt thỉu. Rồi bác bán kẹo kéo. Chiếc khăn màu cháo lòng quấn quanh đầu (cũng có hôm bác đội mũ cát cũ), một vai bác đeo cái hộp gỗ gấp, vai bên đeo giá đỡ, tay bác rung chuông lanh lảnh hoà nhịp với tiếng rao “kẹo kéo, kéo kéo đ..ơ..i. Mua một xu quay xung quanh sẽ được một, được hai, được ba... khúc kẹo ơ...”.
Khi thấy đám trẻ ùa đến, lập tức bác hạ giá xuống, đặt chiếc hộp gỗ lên và mở ra. Lập tức một chiếc bàn hiện ra, trên đó có một cái trục để làm tựa cho một thanh sắt gắn mũi tên quay trên hình tròn đánh số từ 1 đến 10. Cạnh đó là cục kẹo kéo tròn, dài trắng phau được bọc nửa kín nửa hở bằng mảnh khăn trắng bong. Cho đến bây giờ tôi vẫn thích thú vị kẹo kéo ngọt thanh bởi đường và mạch nha hoà cùng cái bùi giòn tan của nhân lạc. Không chỉ mê vị kẹo mà tôi còn bị hấp dẫn khi nhìn bàn tay khéo léo của bác bán hàng kéo thanh kẹo dài ra, rồi đột ngột bác chém tay. Một tiếng “cách” vang lên khe khẽ, gọn gàng. Một khúc kẹo rời ra đúng ý bác. Nhưng hấp dẫn hơn là khi mắt đám trẻ chúng tôi hau háu dõi theo thanh sắt ngang quay vòng tròn sau cái đẩy nhẹ của bác bán hàng, để rồi chờ xem mũi tên chỉ vào số mấy. Thằng Mỹ số nhà chẵn đối diện với nhà tôi không hiểu sao nó chỉ mua một xu mà khi nào quay nó cũng trúng lúc ba, lúc bốn khúc kẹo. Còn tôi hôm nào may lắm cũng chỉ trúng được hai đoạn…
Liền với mấy quầy giải khát là mấy bà, mấy ông bán kem thùng. Bà Vi lác bán kem que. Kem của bà lấy từ bên nhà Thuỷ Tạ sang. Bà Lý thọt lại lấy kem ở Tràng Tiền, nhưng riêng với tôi dạo đó tôi rất thích những cái kem gói của ông Năm rỗ. Mỗi khi nhìn thấy tôi, mặt ông không động đậy, duy đôi môi lập bập điếu thuốc lá bảo nhỏ “ăn chứ”.Thế là ông mở cái hộp gỗ hình chữ nhật có thò ra diềm của bao tải, lấy ra cái kem được gói trong thứ giấy cứng, sẫm màu như giấy xi măng đưa cho tôi. Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn không thể quên được mùi thơm, độ cứng và sự dẻo của cái kem vuông.
Những cô gái tân thời, những bà mệnh phụ Hà thành xách làn, ngồi xích lô hình như bao giờ cũng bắt đầu một ngày bằng việc ghé vào quán hoa tươi để chọn mua những bó hoa long lanh sương và nước từ tay những cô bán hoa luôn luôn mặc áo tứ thân the nâu, thắt đôi vạt trước bụng. |
Nhưng rồi tất cả những món quà có sức hút đến đâu vẫn không thể làm bọn trẻ chúng tôi quên được thứ chơi cực kỳ quyến rũ. Đó là trò xi nê nhòm. Có lẽ ông xi nê nhòm mỗi hôm đi một phố quanh Hà Nội này thì phải. Ngay như ở Bờ Hồ này thì hôm nay ông ở góc đường Tràng Thi, mai ông lại sang ngã tư Thuỷ Tạ, rồi lên vườn hoa Chí Linh… Chẳng thế mà bọn trẻ chúng tôi rất nhớ khi thấy vắng ông. Các ông bà, bán kem, bán nước giải khát, bán kẹo kéo… chúng tôi còn lỗ mỗ biết tên, nhưng riêng ông xi nê nhòm thì chúng tôi chưa bao giờ biết tên ông nên chỉ gọi là “ông xi nê nhòm”.
Đó là một cái thùng dài phía trên có nhô lên một bộ phận gì đấy phủ vải đen kín mít mà bọn trẻ chúng tôi tò mò mấy cũng không tài nào biết. Cái thùng có 2-3 lỗ nhỏ để nhòm vào. Đưa cho ông xi nê một chinh và ghé mắt vào thì chao ôi! Một thế giới sống động hiện ra trên cái màn hình nhỏ chỉ bằng hai bàn tay chập lại. Sự sống động càng tăng lên cùng tiếng thuyết minh khàn khàn của ông xi nê “Tác Giăng đang đuổi cá sấu. Cá sấu giờ tức mình quay lại đuổi Tác Giăng. Chạy nhanh. Chạy nhanh. Quá giỏi. Thế là không đớp được chân Tác Giăng rồi”...
3. Đêm mùa đông xuống. Mới gần 9 giờ tối mà đường phố vắng teo. Nằm trong nhà trùm chăn ngồi chép chính tả nhưng tai tôi luôn luôn nghe thấy những tiếng động ngoài phố dội vào. Đó là tiếng chuông leng keng của chuyến tàu điện cuối cùng từ Mơ đang chạy lên vội vã... Có tiếng ai đó ngoài hè phố “đã 9 giờ rồi cơ à?”. Sau đó là sự im lặng mông lung. Tiếng gió len lén dạo trên những mái nhà. Để rồi đột ngột là tiếng sực tắc giòn, gọn vẳng lên từ xa đến gần. Tôi hình dung ra đứa trẻ, hay anh thanh niên với đôi chân trần đang lướt đi trong phố lạnh, hai tay rập liên tiếp hai thành tre vàng nhạt nhẵn bóng vào nhau để vang “cách cách” trùng điệp không dứt. Có lần có thể vì tò mò nhiều hơn, tôi đòi ăn “sực tắc”. Mẹ tôi bảo “trời đang lạnh không ra ngoài được, mà bảo người ta mang đến thì từ Hàng Buồm về đến đây lại phải hâm lại, mất ngon đi”. Tiếng gõ giòn vang đến ngang nhà tôi, rồi cứ thế xa dần nhỏ dần cho đến khi tan biến vào khoảng không của một đêm đông Hà Nội.
Tiếng sực tắc tan dần đến vắng lặng một lúc để rồi thay vào đó là những tiếng rao khi thưa thớt cầm canh tiếng một “ai bánh tây ba tê đây”, khi tiếng rao nọ rụt rè cất lên nối vào tiếng rao kia “ai bánh khúc, xôi lạch đ.. ơ…i”, Dầu cháo quẩy nóng. Dầu cháo quẩy nóng”, “Phá xa, húng lìu nóng ròn đây”...
Ôi, những tiếng rao một thời nằm lịm trong nỗi nhớ Hà Nội một thuở của tôi...