5. Cảm hứng từ 5 vị thần tiên trong một vở hý kịch
Như chúng ta đã biết, Ngô Thừa Ân sống dưới thời đại nhà Minh trị vì, và ông viết tác phẩm kinh điển Tây Du Ký khi đã ngoài 70 tuổi.
Tượng "Đại Thánh" trong ngôi mộ cổ.
Nhưng theo một số nhà nghiên cứu kịch nghệ và lịch sử thì vào cuối thời Nguyên (Triều đại trước liền kề với Minh triều), nhà hí kịch người Mông Cổ là Dương Cảnh Hiền đã sáng tác bộ hí kịch “Tây Du Ký”. Trong đó có đoạn tự bạch của Tôn Ngộ Không:
“Tiểu Thánh đệ huynh tỷ muội ngũ nhân: Đại tỷ ly sơn lão mẫu, nhị tỷ vu chi chi, đại huynh tề thiên đại Thánh, tiểu Thánh thông thiên đại Thánh, tam đệ sái sái tam lang” (Tạm dịch: 5 anh chị em của Tiểu thánh: Chị cả Ly sơn lão mẫu, chị hai bà mo Chi Chi, Đại huynh Tề Thiên đại Thánh, tiểu thánh Thông Thiên đại Thánh, Tam đệ Tam Lang hiếu động, đùa nghịch). Từ đó suy ra, “Tề Thiên Đại Thánh” và “Thông Thiên Đại Thánh” chính là một đôi huynh đệ.
Chính từ những phát hiện đó, nhiều người cho rằng tác giả Ngô Thừa Ân đã lấy cảm hứng từ bộ hí kịch này. Bên cạnh đó, xây dựng nhân vật Tôn Ngộ Không hội tụ đầy đủ phép thần thông của 5 anh chị em như trong truyền thuyết, làm thành một hình tượng anh hùng thần thoại để truyền tụng cho người đời sau.
Giả thuyết này được cân nhắc nhiều hơn khi đầu năm 2005, các nhà khảo cổ học phát hiện trong miếu Song Thánh Bảo Sơn ở tỉnh Phúc Kiến có hai ngôi mộ nằm với tổng diện tích khoảng 18m2, ước tính rộng 2,9m, sâu 1,3m. Ngôi mộ có hai tấm bia dựng thẳng ở chính giữa, bia bên trái có khắc chữ "Tề Thiên Đại Thánh", bên phải khắc "Thông Thiên Đại Thánh", phần dưới cùng của mỗi bia đều có hai chữ nhỏ "Thần vị".
Niên đại của khu mộ được cho là trước thời điểm Ngô Thừa Ân viết Tây Du Ký, cùng với việc trùng hợp với một số chi tiết trong vở hý kịch, khiến giả thuyết này được cho là khá khả dĩ.
4. Có một nhà sư thời Đường tên Thích Ngộ Không
Người này tên là Thích Ngộ Không (731 – 812), tên tục là Xa Phụng Triều, người quận Kinh Triệu, huyện Vân Dương.
Ngộ Không từ nhỏ tư chất thông minh, yêu thích Nho học, là người nổi tiếng hiếu kính và biết cách đối nhân xử thế.
Nhân vật Tôn Ngộ Không do Lục Tiểu Linh Đồng thủ vai.
Vào năm 751, Ngộ Không theo Trương Quang Thao đi sứ tới Tây Vực, do mắc trọng bệnh nên phải ở lại nước Kiền Đà La – nơi Phật pháp cực hưng thịnh (nay là địa phận Peshawar, Pakistan), không thể hồi hương.
Cùng năm đó, Ngộ Không nhận pháp sư Tam Tạng làm sư phụ, lấy pháp hiệu là Đạt Ma Đà Đô và đi tu, mãi tới năm 789 mới quay trở về kinh thành.
Thích Ngộ Không đồng hành cùng Huyền Trang suốt 40 năm, tại phương Tây cùng tham gia phiên dịch và truyền giáo, để lại rất nhiều sự tích cùng truyền thuyết.
Một số thuyết cho rằng, người ta đã đem cái tên Thích Ngộ Không trộn lẫn với cái tên "Hầu Hành Giả", người luôn ở bên cạnh Đường Tăng trong câu chuyện lấy kinh rồi liên hệ lẫn nhau.
Sau khi từ Tây Vực trở về, Ngộ Không bắt đầu biên dịch kinh thư và tham gia vào các hoạt động truyền giáo trong nhiều năm. Một số học giả tin rằng hành trình của Đường Tam Tạng và Tôn Ngộ Không đã được trộn lẫn vào nhau để tạo nên câu chuyện "thỉnh kinh" đầy biến động và li kì trong suốt hàng thế kỷ qua.
3.Từ "Hầu hình nhân" Thạch Bàn Đà
Bức bích họa được tìm thấy trong hang động ở Cam Túc về một "Hầu Hình Nhân" bên cạnh Đường Tăng.
Một nghiên cứu khác chứng minh rằng: Tôn Ngộ Không thực chất là một người Trung Quốc cổ đại. Nhân vật có thật tên là Thạch Bàn Đà, quê quán Tiên Dương, Trung Quốc. Bởi hình dáng kì quái, xấu xí nên mọi người trong thôn gọi anh là "hầu hình nhân", tức người khỉ.
Thạch Bàn Đà có võ nghệ cao cường, thông minh nhanh nhẹn và hay giúp đỡ người xung quanh, diệt trừ thú dữ nên được mọi người yêu quý. Năm 629, khi Huyền Trang đi thỉnh kinh ngang qua Tiên Dương, Thạch Bàn Đà được Đường Tăng giảng Phật pháp. Vì giác ngộ và được Đường Tăng cảm hóa, nên Thạch Bàn Đà nguyện từ bỏ hồng trần, theo tháp tùng Đường Tăng tới Tây Thiên lấy kinh.
Giáo sư Trương Cẩm Trì khoa tiếng Trung thuộc trường Đại học Sư phạm Cáp Nhĩ Tân, đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu về câu chuyện Đường Tăng thỉnh kinh được lưu truyền cũng đưa ra một số kiến giải của riêng mình.
Theo ông, khi Huyền Trang sang Tây phương thỉnh kinh, gặp lúc nguy nan đã thu nạp một đệ tử người Hồ tên gọi Thạch Bàn Đà. Đây được cho là nguyên mẫu thực tế của Tôn Ngộ Không trong “Tam Tạng Pháp Sư truyện”.
Qua phân tích, giáo sư Trương phát hiện ra một mối liên hệ rất mật thiết giữa Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Thạch Bàn Đà, đó là:
1. Họ đều có thể giải quyết nguy nan;
2. Họ đều có thân phận hành giả như nhau;
3. Mối quan hệ của họ giống như giữa sư phụ và đệ tử;
4. Thạch Bàn Đà chính là Hồ Tăng. Hồ Tăng với Hồ Tôn lại có cách phát âm tương tự nhau.
Do đó, câu chuyện “Đường Tăng thỉnh kinh, Hồ Tăng phò tá” có thể dễ dàng truyền thành “Đường Tăng thỉnh kinh, Hồ Tôn phò tá”. Từ đó xuất hiện nhiều câu chuyện truyền kỳ về Tôn Ngộ Không cùng Đường Tăng sang Tây phương bái Phật, cầu kinh.
2. Vay mượn từ một "Thần Khỉ” trong Ấn Độ Giáo?
Một số học giả cho rằng, hình ảnh Tôn Ngộ Không thực chất được phỏng theo "thần khỉ" trong Ấn Độ giáo, có tên là Hanuman.
Thần khỉ Hanuman là nhân vật trung tâm trong hai bộ sử thi vĩ đại và lừng danh của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata. Hanuman thường được coi là con trai của thần gió Vayu.
Các đền thờ khắp nước Ấn Độ đều có hình ảnh Hanuman, vị thần khỉ nổi tiếng với vũ khí là quả chùy (gada), biểu tượng của lòng dũng cảm. Thần rất sùng bái người bạn của mình là Rama (vị vua anh hùng được kể trong sử thi Ramayana), và cũng được Rama thương yêu nhất, nên có khi người ta vẽ Hanuman với hình Rama xăm trên ngực.
Thần khỉ Hanuman trong Ấn Độ giáo.
Rama được coi là hóa thân của Vishnu, là Đấng bảo tồn trong quan niệm Trimurti của Ấn giáo. Trong cuộc chiến đấu giữa vua Rama anh hùng và quỷ Ravana, thì Hanuman là người phụng sự vua đắc lực nhất, trung thành với vua nhất.
Thần thoại Ấn Độ qua mấy ngàn năm không ngừng truyền tụng các kỳ tích của Hanuman, để rồi Hanuman sớm trở thành một hình ảnh quen thuộc, phổ biến của mỹ thuật Ấn giáo.
Nhưng giả thuyết này tương đối mông lung và thiếu bằng chứng, và dĩ nhiên người Trung Hoa vốn có lòng tự tôn cao sẽ không để một trong những nhân vật quan trọng bậc nhất của hệ thống thần thoại của mình lại là một bản sao từ nguyên mẫu của một nền văn hóa khác nên đã có rất nhiều ý kiến bác bỏ.
1. Hay cuối cùng chỉ là gửi gắm những tâm tư của Ngô Thừa Ân?
Ngô Thừa Ân có một cuộc đời bất đắc chí. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa cử, nhưng bản thân ông lại có thời gian làm quan không nhiều, hai lần từ quan vì đều cảm thấy chán sự luồn cúi và thất vọng vì chính trường, thời cuộc...
Ngô Thừa Ân.
Tây Du Ký được ông viết khi đã ngoài 70, ở độ tuổi mà gần như đã nếm đủ hương vị cuộc đời, đủ thăng trầm và trải nghiệm. Thiên tuyệt tác ấy thể hiện nhiều tâm tư, chiêm nghiệm về cuộc đời mà Ngô Thừa Ân đã thấu trải. Và Tôn Ngộ Không cũng mang trong mình nhiều gửi gắm,hoài bão, triết lý mà tác giả hướng đến...
Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại, trượng nghĩa, hào phóng nhưng lại kiêu căng tự phụ. Phần nào cũng có ít tuổi trẻ của Ngô Thừa Ân trong đó. Nhưng ông để Ngộ Không gặp được Tam Tạng đại sư, được hóa kiếp tu hành, được mang vào mình một cái tâm hướng phật, một hành trình thỉnh kinh ý nghĩa. Hẳn nhiên trong đó có pha chút cái thở dài của việc rút ra từ cuộc đời làm quan thất bại của ông, khi không gặp được người trọng hiền, không gặp "minh quang chính đạo" để theo đuổi như một sự nghiệp để đời...
Dĩ nhiên tất cả những gì đề ra trên đây, phần nhiều mang tính giả thuyết suy luận. Ngô Thừa Ân đã nằm xuống từ nhiều thế kỷ trước, nhưng dấu ấn thiên thu mà ông để lại thì mãi hoài sáng soi như ánh trăng viên mãn.