Gần 30 năm tìm kỷ vật
Dáng người cao, gầy mái tóc bạc trắng cùng bộ quân phục chỉnh tề, dường như cựu chiến binh Phạm Văn Mão (Minh Sơn, Ngọc Lặc, Thanh Hóa) vẫn giữ nguyên tác phong của anh bộ đội giải phóng quân năm xưa.
Trong ngôi nhà ngói ba gian đơn sơ, sạch sẽ, ngăn nắp, những huân, huy chương, giấy khen, bằng khen, mảnh đạn, vỏ đạn, bi đông (bình tông) đựng nước, đồ y tế... đều được ông xếp ngay ngắn ở một nơi trang trọng nhất - đó là chiếc tủ ly bằng gỗ đã bạc màu véc-ni. Tất cả những kỷ vật ấy, là thành quả của gần 30 năm qua do ông Mão tìm đến những nơi mà ông đã từng chiến đấu, hoặc hành quân qua để sưu tầm với mong muốn lưu giữ lại những ký ức chiến tranh.
Hiện nay, trong bộ sưu tập của ông tất cả đã có 115 kỷ vật lớn, nhỏ rất có giá trị. Từ đôi dép cao su, đến những chiếc võng dù, hộp đựng thuốc tây, hộp đựng xilanh tiêm được làm bằng vỏ đạn pháo sáng, ống bom bi… hay chiếc lược, ca uống nước… làm từ vỏ máy bay, đều được ông Mão nâng niu, bảo quản rất cẩn thận.
Chỉ tay vào chiếc ca uống nước được làm bằng nhôm cứng, ông Mão kể lại: Năm 1969, khi đánh trận ở huyện Mường Nòng (tỉnh Xaphanakhet, Lào), Binh trạm 33, Tiểu đoàn 559 của ông hạ được chiếc máy bay C130 của Mỹ. Sau trận đánh ấy, ông Mão bị thương. Trong lúc nằm điều dưỡng, ông dùng mảnh vỡ cánh máy bay làm chiếc ca để uống nước.
Còn chiếc bi đông đựng nước bằng nhựa cứng, ghi chữ “Quân lực Việt Nam Cộng hòa” kia, là do một tên lính ngụy kỷ niệm. “Lần ấy, trong một trận đánh, tên lính ngụy bị thương khá nặng, không còn sức kháng cự trước họng súng của tôi và đồng đội.
Hắn giơ tay đầu hàng, xin tha mạng. Lúc đó, tôi không giết hắn, còn băng bó vết thương cho nó, rồi bảo tự tìm đường về mà với gia đình. Khi nghe tôi nói vậy, tên lính ngụy rưng rưng nước mắt, lôi trong người ra chiếc bi đông đang còn nước rồi đưa cho tôi làm vật kỷ niệm, rồi chắp tay vái cảm ơn tôi vì đã tha mạng…”- ông Mão nhớ lại.
Để có những kỷ vật này, suốt thời gian gần 30 năm qua, ông Mão đã phải lặn lội tận chiến trường Quảng Trị, đường 9 Nam Lào, Khe Xanh…đi tìm lại. Ông bảo, từ năm 1984, khi mới sưu tập kỷ vật kháng chiến, ông đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn, trở ngại. Bây giờ nhớ lại, người cựu binh này vẫn không tin là mình đã làm được điều đó, ông bộc bạch: “Lúc bấy giờ, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn lắm, không biết kiếm đâu ra tiền để đi vào Nam. Phải thuyết phục mãi, bà nhà tôi và các con mới đồng ý để cho đi”.
Ước nguyện của người lính già
Năm 1968, khi vừa tròn 18 tuổi, chàng trai Phạm Văn Mão gia nhập quân đội và được biên chế vào tổ Trinh sát E30, Đoàn 559- Bộ đội Trường Sơn. Ông tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, rồi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Năm 1975, đất nước đón ca khúc khải hoàn, ông xuất ngũ trở về quê hương, đảm nhiệm cương vị chủ nhiệm Hợp tác xã Trung Thái Lai, Bí thư Đảng ủy xã, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Minh Sơn. Đến năm 1999, ông nghỉ hưu.
Dù đã gần tuổi “thất thập”, sức khỏe ngày càng yếu, bệnh tật luôn hành hạ, trong cơ thể còn nhiều mảnh đạn… nhưng ông Mão vẫn chưa bao giờ nguôi ý định dừng công việc sưu tầm kỷ vật cho bảo tàng “đặc biệt” của mình.
Khi được hỏi về tâm nguyện và dự định, ông bảo, nguyện vọng lớn nhất của ông giờ đây là tìm lại được phần mộ của liệt sĩ Nguyễn Đức Đảm- quê ở tỉnh Hưng Yên, là người đồng đội cùng đơn vị đã hy sinh trong một trận đánh ở Lào. Lúc đó, chính tay ông đã chôn cất người đồng đội ấy và kèm theo một số kỷ vật.
Thế nhưng, trong đợt đi miền Nam của ông hồi tháng 5 vừa qua, ông không hoàn thành được tâm nguyện ấy, vì địa điểm chôn cất đồng đội của ông đã thay đổi quá nhiều, không thể nhớ được. Còn bản thân mình, giờ đây, người lính già ấy vẫn đang chạy đua với thời gian, gắng hoàn thành tâm nguyện của cả cuộc là có được một bảo tàng kỷ vật kháng chiến cho riêng mình và đồng đội. Bộ sưu tập những kỷ vật hiện tại cũng đã cơ bản hoàn thành.
Lúc chia tay chúng tôi, ông Mão thổ lộ một điều rằng, trước lúc xuất ngũ, tất cả giấy tờ, hồ sơ của ông đều bị thất lạc mất. Vì thế, Ban liên lạc Bộ đội Trường Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã gửi hồ sơ của ông vào Quân khu IV, để giám định thương tật cho ông, để ông được hưởng chế độ của Đảng và Nhà nước. Thế nhưng, đã 5 năm trôi qua, đến nay ông vẫn phải chờ và không biết hỏi ai.
Hồng Đức