Tên nước vẫn là CHXHCN Việt Nam
Về tên nước (Điều 1): Qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội, đại đa số ý kiến tán thành việc giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị lấy lại tên nước là “Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Qua nghiên cứu, xem xét nhiều mặt, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết để thể hiện nhất quán mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hơn nữa, tên gọi này đã được Quốc hội lựa chọn ngay sau ngày nước nhà thống nhất, đã thân quen với nhân dân ta, được bạn bè và các nước công nhận, trân trọng. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4):
Qua tổng hợp ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho thấy, tuyệt đại đa số ý kiến nhân dân và các đại biểu Quốc hội tán thành việc khẳng định trong Hiến pháp vai trò lãnh đạo của Đảng và những nội dung thể hiện tại Điều 4 của Dự thảo.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nên viết gọn lại theo hướng chỉ ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, còn bản chất của Đảng, trách nhiệm của Đảng thì không quy định trong Hiến pháp mà quy định trong Điều lệ Đảng; một số ý kiến đề nghị cần khẳng định rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội; đề nghị quy định Đảng phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, quy định về Đảng trong Dự thảo Hiến pháp lần này đã thể hiện đầy đủ những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; bản chất giai cấp của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc; trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự tiếp tục kế thừa các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)); phù hợp với truyền thống lịch sử của cách mạng Việt Nam, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP xin đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Điều 4 của Dự thảo.
Kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo
Về các thành phần kinh tế (khoản 1 Điều 51): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 3 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Phương án 1 nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như đã ghi trong Cương lĩnh.
Loại ý kiến thứ hai tán thành với Phương án 2 quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Loại ý kiến thứ ba tán thành với Phương án 3 quy định khái quát mà không quy định cụ thể vai trò của thành phần kinh tế để vừa thể hiện được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện của Hiến pháp[1].
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quy định về các thành phần kinh tế trong cả 3 phương án trình Quốc hội tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng đều trên tinh thần và nội dung của Cương lĩnh. Nếu quy định đầy đủ các thành phần kinh tế như phương án 1 thì phù hợp với cách thể hiện trong Cương lĩnh nhưng sẽ không bảo đảm tính khái quát và ổn định lâu dài của Hiến pháp do nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển.
Nếu không liệt kê các thành phần kinh tế như Phương án 3 thì tuy bảo đảm tính khái quát, ổn định của Hiến pháp nhưng lại không thể hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thì vai trò định hướng, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước và kinh tế nhà nước là rất quan trọng.
Quy định như vậy để thể hiện hạ tầng kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Hiến pháp cần hiến định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định về nội dung này tại khoản 1 Điều 51 như sau: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
Vẫn quy định “Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội”
Về thu hồi đất (khoản 3 Điều 54):Qua tổng hợp ý kiến về vấn đề này, có các loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định về thu hồi đất tại khoản 3 Điều 54 của Dự thảo trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội;
Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp để thực hiện “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều trường hợp cũng đã được thể hiện khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Quy định như vậy cũng tránh được việc lạm dụng trong thu hồi đất;
Loại ý kiến thứ ba đề nghị không quy định về thu hồi đất trong Hiến pháp mà để Luật đất đai quy định thì bảo đảm tính linh hoạt hơn trong quản lý đất đai.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quyền sử dụng đất là quyền quan trọng của người dân nên Hiến pháp cần phải quy định chặt chẽ những trường hợp thu hồi. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho Luật đất đai quy định nhằm tránh việc lạm dụng để thu hồi đất tràn lan, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết phải thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với lợi ích của người sử dụng đất và doanh nghiệp nên cần phải quy định chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch và có bồi thường. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý khoản 3 Điều 54 như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
- Về trưng dụng đất (khoản 4 Điều 54): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất để đáp ứng yêu cầu trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
Để thống nhất với quy định tại Điều 32 của Dự thảo Hiến pháp, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật đất đai và các luật có liên quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung quy định: “Việc Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định” vào khoản 4 Điều 54 của Dự thảo.
Không bổ sung quy định về Hội đồng Hiến pháp
Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120 Dự thảo trình Quốc hội): Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Theo đó, Phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp; Phương án 2 đề nghị cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất việc thành lập Hội đồng Hiến pháp với chức năng chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Qua thảo luận, ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan và các chuyên gia cho rằng, việc bảo vệ Hiến pháp là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, phù hợp với nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được xác định trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, XI.
Trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhiều ý kiến nhân dân, của một số cơ quan, tổ chức hữu quan và ý kiến của nhiều chuyên gia tán thành về quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo nhưng cần cân nhắc một số nội dung cụ thể về thẩm quyền, về tổ chức và hoạt động của cơ quan này, nhất là mối quan hệ giữa Hội đồng Hiến pháp với các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Tại kỳ họp thứ 5, kết quả xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng phiếu thì bên cạnh các ý kiến tán thành với phương án 2 thành lập Hội đồng Hiến pháp[2], đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành mà không thành lập Hội đồng Hiến pháp[3].
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là vấn đề mới, lại đang còn có nhiều ý kiến khác nhau, nên trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, trong đó, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nhất là Ủy ban pháp luật của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp là phù hợp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định Hội đồng Hiến pháp vào Dự thảo.
[2] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 2 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
[3] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 216/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.