Dân Việt

Sử dụng ngô làm thức ăn chăn nuôi ở ĐBSCL: Doanh nghiệp kêu khó

Thuận Hải 24/07/2013 08:09 GMT+7
Nhiều doanh nghiệp sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi cho rằng, việc tiêu thụ sản phẩm ngô, đậu tương tại ĐBSCL, theo đề án chuyển đổi đất trồng lúa, hiện còn nhiều khó khăn do thiếu hệ thống sấy, chế biến, giá cả không cạnh tranh…
Thiếu từ khâu bảo quản, sơ chế

Theo thống kê của Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, cả nước hiện có gần 250 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi (TACN). Trong đó, sản lượng TACN ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng là tương đương nhau và lớn nhất nước, chiếm khoảng 39,5 – 39,6%.
Việc bảo quản, lưu trữ ngô nguyên liệu ở ĐBSCL hiện chủ yếu bằng các phương pháp thủ công.
Việc bảo quản, lưu trữ ngô nguyên liệu ở ĐBSCL hiện chủ yếu bằng các phương pháp thủ công.

Ông Phạm Đức Bình – Tổng Giám đốc Công ty Sản xuất TACN Thanh Bình cho biết, các nhà máy tại ĐBSCL chủ yếu chế biến thức ăn thủy sản với quy mô nhỏ, lẻ. Trong khi đó, hầu hết hệ thống kho, nhà máy sấy, sơ chế nguyên liệu như ngô, đậu nành và các sản phẩm phụ trợ khác của doanh nghiệp chế biến TACN đều đóng tại Đông Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên. Hiện chưa có một cơ sở sấy, sơ chế ngô nào đặt tại khu vực ĐBSCL. “Nếu trồng ngô trong mùa mưa ở ĐBSCL, công tác bảo quản sau thu hoạch sẽ rất khó khăn”- ông Bình nói.

Ông Trần Ngọc Chí – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần GreenFeed Việt Nam cũng cho rằng, vấn đề lớn nhất trong tiêu thụ các sản phẩm ngô, đậu tương tại ĐBSCL hiện nay là việc sấy và bảo quản sau thu hoạch. Ông Chí cho biết, ở các nước sản xuất ngô lớn, ngô sau khi thu hoạch, sấy khô được trữ trong các silô lớn, giúp đảm bảo chất lượng. Trong khi đó, ngô trong nước sau khi thu hoạch chưa được phơi, sấy đúng kỹ thuật, khâu bảo quản cũng chỉ đơn giản là đóng bao, chất đống trong kho.

“Việc đóng bao vừa đẩy giá thành sản phẩm tăng lên vừa khiến tỷ lệ hạt vỡ, hạt bị ẩm, mốc cao, làm tăng tỷ lệ độc tố trong sản phẩm, ảnh hưởng tới chất lượng TACN. Ngoài ra, tỷ lệ hạt vỡ nhiều cũng khiến việc chế biến khó khăn hơn” - ông Chí cho biết.

Giá cả không cạnh tranh

Theo ông Phạm Đức Bình, sở dĩ các doanh nghiệp lớn không chú trọng xây dựng nhà máy chế biến TACN tại vùng ĐBSCL vì nhiều lý do. Trong đó, số hộ chăn nuôi ở ĐBSCL hầu hết là nhỏ, lẻ, chủ yếu sử dụng các sản phẩm thức ăn có sẵn trong gia đình như cám gạo, ngô, rau củ các loại, rất ít hộ sử dụng cám hỗn hợp.

Còn đối với thức ăn thủy sản, trong tình hình nuôi trồng thủy sản đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay, rất khó kỳ vọng nhiều vào sự phát triển của ngành chế biến thức ăn thủy sản.

Hơn nữa, theo ông Bình, chi phí cho việc xây dựng một nhà máy sấy, chế biến TACN tại các tỉnh ĐBCSL luôn cao hơn ít nhất 50% so với tổng vốn đầu tư một nhà máy tương tự, đặt tại vùng Đông Nam Bộ hoặc Tây Nguyên. Nguyên nhân là do đất nền ở ĐBSCL mềm, lún, giao thông không thuận lợi, chi phí đầu tư cho việc xây dựng các công trình sẽ đội lên.

Theo ông Phạm Đức Bình, để tiêu thụ được các sản phẩm như ngô, đậu tương khi tăng diện tích, sản lượng trong thời gian tới, ngành trồng trọt cần tính tới các biện pháp lâu dài như cơ cấu mùa vụ, tăng cường cơ giới hóa…


Trong khi đó, đánh giá tình hình nguyên liệu TACN trên thế giới trong 6 tháng cuối năm, ông Lê Bá Lịch – Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cho biết, hiện tại tồn kho các sản phẩm ngũ cốc hiện đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ 2012.

Giá các sản phẩm này do đó đang trên đà giảm mạnh. Trong khi đó, giá ngô thu mua trong nước hiện dao động ở mức 6.900 – 7.100 đồng/kg, thì giá ngô nhập khẩu về đến Việt Nam chỉ có 6.000 đồng/kg. Tương tự, giá đậu nành sản xuất trong nước hiện ở mức 15.000 đồng/kg trong khi giá nhập khẩu 12.000-13.000 đồng/kg.

“Trong tháng 7, giá nhập khẩu ngô đã giảm từ 320 USD/tấn xuống còn 250 – 260 USD/tấn. Dự báo, từ nay đến cuối năm, giá ngũ cốc thế giới có thể sẽ còn giảm thêm nữa do sản lượng đang tăng mạnh, gây bất lợi cho tiêu thụ sản phẩm trong nước thời gian tới” - ông Phạm Đức Bình phân tích thêm.