Dân Việt

Tên lửa Topol-M: "Mũi thương" vô địch của quân đội Nga

Quân đội Nhân dân 29/07/2013 06:17 GMT+7
Các chuyên gia Nga luôn khẳng định, tên lửa đạn đảo liên lục địa (ICBM) Topol-M miễn nhiễm với lá chắn tên lửa của Mỹ. Điều này không phải không có cơ sở.

Là sản phẩm của Viện Nhiệt học Moscow phát triển từ đầu những năm 1990 và do xưởng chế tạo máy Votkinsklắp ráp, ngay từ khi ra mắt, RT-2UTTKh Topol-M (tên mã NATO là SS-27 Sickle B) được coi là hướng phát triển ICBM mới của Nga với việc áp dụng công nghệ động cơ đẩy tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn và được kế thừa nhiều công nghệ đặc thù của ICBM Nga.

img
Topol-M phiên bản di động.
Trong thực tế, ICBM Topol-M có kết cấu 3 tầng phóng với phiên bản giếng phóng cố định và trang bị trên xe phóng dã chiến đặc chủng. Tên lửa dài 22,7m, đường kính thân đạt 1,9m và tổng trọng lượng đạt 47,2 tấn (trong đó khối lượng đầu đạn mang theo đạt 1,2 tấn).

Thiết kế tiêu chuẩn của Topol-M là mang theo đầu đạn hạt nhân đơn khối có sức nổ tương đương 800 Kilotone được trang bị công nghệ tự dẫn độc lập MIRV.

Theo lời Tổng công trình sư Yuri Solomonov, Topol-M cũng có thể hoán cải để mang 4-6 đầu đạn hạt nhân cỡ nhỏ để giảm khả năng bị đánh chặn.

Tầm bắn tối đa của Topol-M đạt 10.500km và sai số vòng tròn đồng tâm tới mục tiêu (CEP) khoảng 200m (tầm bắn của ICBM thực tế không cần quá 12.000km vì đây cũng là độ dài của đường kính trái đất, 12.742km).

Để có được CEP như trên, Topol-M sử dụng hệ thống dẫn đường hỗn hợp vệ tinh, quán tính và đạo hàng hình sao (với tầm bắn lớn, dẫn đường quán tính thường không chính xác do sự bất ổn của từ trường trái đất. Để khắc phục, ICBM sử dụng bản đồ vị trí các ngôi sao để tham chiếu với các hệ dẫn đường khác đưa đầu đạn tới đích với sai số ít nhất).

img
Giếng phóng Toopol-M
Điểm khác biệt nữa so với ICBM của Mỹ là Nga luôn ưu tiên phát triển phiên bản đặt trên xe dã chiến đặc chủng bên cạnh phiên bản giếng phóng và ICBM Topol-M cũng không là ngoại lệ.

Điểm yếu của ICBM đặt trong giếng phóng là dù bệ phóng được gia cố tốt tới mấy thì cũng chỉ có xác suất chịu được một số đợt tấn công phủ đầu bằng vũ khí hạt nhân. Nếu bị tấn công cấp tập thì mất khả năng đánh trả.

Trong khi đó, phiên bản di động (đặt trên xe dã chiến MZKT-79221) có thể tự cơ động tới vị trí bất kỳ để phóng tên lửa mà đối phương khó có thể phát hiện được, đặc biệt với đất nước rộng lớn như Nga.

Ngoài ra, ICBM Topol-M sử dụng cơ cấu phóng thẳng đứng nguội giúp đơn giản hóa cơ cấu bệ phóng. Ở cơ cấu phóng này, hệ thống đẩy đạn tên lửa khỏi ống (giếng) phóng rồi tên lửa mới kích hoạt động cơ tự thân.

Tiếp đó, điểm mạnh của ICBM sử dụng nhiên liệu rắn như Topol-M có khả tăng tăng tốc nhanh hơn hẳn dòng ICBM nhiên liệu lỏng trước đó của Nga. Gia tốc của Topol-M lúc tăng tốc tối đa đạt 7.320m/s

Tại sao Topol-M có thể xuyên thủng mọi lá chắn tên lửa?

Các chuyên gia Nga luôn khẳng định, ICBM Topol-M miễn nhiễm với lá chắn tên lửa của Mỹ. Điều này không phải không có cơ sở.

Do sử dụng nhiên liệu rắn, thời gian tăng tốc (phát nhiệt đặc thù) của ICBM Topol-M rất ngắn và mờ nhạt. Thế nên vệ tinh viễn thám quân sự có rất ít thời gian để xác định và phân biệt được tên lửa này. Cũng vì thế không thể kịp cảnh báo trước cho hệ thống phòng thủ tên lửa để đánh chặn.

img

Thực tế, ICBM dễ tổn thương nhất là ở giai đoạn tăng tốc do tên lửa cần lấy độ cao, không thể tự cơ động tránh né được.

Tiếp đó, ở pha cuối, khi tên lửa đã thả các đầu đạn con tự dẫn MIRV (thường là RS-24) và các thiết bị gây nhiễu, thì việc đánh chặn các vật thể nhỏ đang bay ở vận tốc vụ trụ cấp 1 (7,9km/giây) gần như là không thể.

Ngoài ra, hệ thống vỏ bọc của đầu đạn trang bị trên ICBM Topol-M được thiết kế cực kỳ chắc chắn mà chỉ có vụ nổ hạt nhân mới có thể phá hủy được nó, nên các phương thức gây nhiễu bằng công nghệ EMP hay quang điện đều vô hiệu. Khi tới điểm đã định, đầu đạn sẽ tự kích nổ ở độ cao 500m để phát huy tối đa khả năng hủy diệt.

Ưu thế của ICBM nhiên liệu rắn so với loại sử dụng nhiên liệu lỏng:

Trong cuộc đua công nghệ tên lửa giữa Nga và Mỹ, ICBM sử dụng nhiên liệu tên lửa rắn đã thể hiện những ưu thế vượt trội so với nhiên liệu lỏng. Đối với ICBM sử dụng nhiên liệu lỏng, quá trình chuẩn bị bị kéo dài hơn khi cần nhiều thời gian bơm hỗn hợp nhiên liệu được bảo quản ở nhiệt độ thấp vào tên lửa. Ngoài ra, nếu vụ phóng bị hủy thì cũng cần rút nhiên liệu ra sớm do chúng là hợp chất có tính oxy hóa cao dễ gây cháy nổ.

Trong khi đó, ICBM sử dụng nhiên liệu rắn, sau khi chế tạo chỉ cần khoang bảo quản bằng khí trơ có thể niêm cất được nhiều năm và khi báo động chỉ cần vài phút chuẩn bị là có thể sẵn sàng phóng.

Lợi thế tiếp của ICBM nhiên liệu rắn là không cần một hệ thống hậu cần và bảo đảm phức tạp cho tên lửa như ICBM nhiên liệu lỏng vốn rất tốn kém. Ngoài ra, ở cùng tầm bắn, ICBM nhiên liệu rắn thường có kích thước nhỏ hơn.

Điểm mạnh duy nhất của ICBM nhiên liệu lỏng là khả năng mang được khối lượng đầu đạn lớn hơn và có thể tùy biến được tốc độ tên lửa hoặc cơ động quỹ đạo nhờ công nghệ thay đổi véc-tơ lực đẩy.