Ông là người chụp được bức ảnh “Nhà tù Tuolsleng” nổi tiếng toàn thế giới. Phóng viên NTNN đã trò chuyện với nhà thơ Anh Ngọc.
Cách đây 35 năm, ông đã đến Phnom Penh trong hoàn cảnh thế nào? - Tối 7.1.1979, đài truyền hình và phát thanh đưa tin bộ đội tình nguyện Việt Nam và quân đội giải phóng nhân dân Campuchia đã tiến vào Phnom Penh, giải phóng đất nước Campuchia khỏi ách thống trị của chế độ giệt chủng Polpot, thì ngay sáng hôm sau, tôi và mấy anh em phóng viên của Báo Quân Đội Nhân Dân được Phó Tổng Biên tập Trần Công Mân gọi tới giao nhiệm vụ sang Campuchia công tác gấp.
Nhà thơ Anh Ngọc (đeo kính) tại Campuchia tháng 1.1979.
Chiếc trực thăng HU 1A thả chúng tôi xuống sân bay Pochentong, tôi và nhà báo Hồng Phương vẫy xe của một đơn vị đồn trú, tìm lối vào trung tâm thành phố. Thật khác với cảnh chúng ta tiến vào Sài Gòn tháng 4.1975 trong đoàn tụ và ấm áp, cả Phnom Penh bấy giờ mênh mông và hiu quạnh như đã bị bỏ hoang từ những thuở nào - mà có lẽ chính xác là từ ngày 17.4.1975, khi quân đội Khơme đỏ vào tiếp quản thành phố và đuổi hết dân ra khỏi thủ đô để nhân danh “cách mạng”, tiến hành cuộc thanh lọc đẫm máu nhất trong lịch sử Campuchia.
Từ sau những khu nhà lạnh lẽo và âm u ấy, thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp trong gió bay ra một mùi gì thum thủm, tanh tanh như mùi prôtít phân hủy chưa lâu. Cứ nghĩ là mùi mắm bồ hóc, vì tôi có nghe nói đến thứ món ăn quen thuộc này của người dân Campuchia, vốn cũng chẳng xa lạ gì với các loại mắm tôm mắm tép của quê tôi. Nhưng sự thật tôi đã nhầm. Đến buổi trưa hôm ấy thì chúng tôi đã mục sở thị cái mùi khó ngửi ấy phát ra từ đâu và đấy là một phát hiện làm tất cả chúng tôi đều kinh hoàng...
Đó hẳn là những ký ức không thể nào quên?
- Ấy là một buổi gần trưa, sau khi chúng tôi đến Phnom Penh được đâu 3-4 ngày. Anh Ba Vũ (Bùi Cát Vũ) - một cán bộ chỉ huy bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Phnom Penh, báo cho nhóm phóng viên chúng tôi biết quân ta vừa phát hiện ra giữa Phnom Penh một khu trường đã bị bọn Polpot biến thành nhà tù, từng giam giữ rất nhiều tù nhân, và trước khi tháo chạy, chúng đã giết chết tất cả. Anh Hồng Phương và tôi lập tức bám theo xe của anh Ba Vũ và ông Khang Xarin - lúc ấy là Tư lệnh quân quản Phnom Penh của quân giải phóng nhân dân Campuchia, tìm đến ngôi trường có tên là Toulsleng.
Khi chúng tôi đặt chân được vào đầu dãy nhà thứ nhất, thì một cảnh tượng khủng khiếp hơn cả cảnh địa ngục đập ngay vào trước mắt: Ở chính giữa mỗi căn phòng mà trước đây là lớp học đều có một xác chết, mỗi xác một tư thế, một kiểu nằm, tất cả đều trần truồng, trương phềnh, đen kịt, bắt đầu rữa nát và bốc mùi hôi thối dữ dội. Và khi tất cả mọi người đều tự động lùi phắt lại, kể cả 2 chiến binh dày dạn trận mạc là anh Ba Vũ và ông Khang Xarin, có người đưa vội mùi xoa lên che mũi, có người khạc nhổ như muốn phát nôn, thì đúng lúc đó, tôi liền nhớ đến nhiệm vụ của một người làm báo và buộc lòng phải tiến về phía các xác chết với cái máy ảnh trong tay.
Những bức ảnh sau đó đã ra mắt công chúng như thế nào, thưa ông?- Cầm trong tay cái máy ảnh Practika cũ kỹ, tróc sơn, không đèn, tôi mở ống kính hết cỡ và “liều mình như chẳng có”, bỏ lại sau lưng tất cả mọi người bấy giờ đã lùi xa tít tắp, để một mình đến gần các xác chết.
"Chưa bao giờ tôi biết ơn cái máy ảnh của mình như vậy. Nó đã ghi lại được một hình ảnh không thể chân thực và thuyết phục hơn về những nghịch lý của kiếp người và cõi đời này”. Nhà thơ Anh Ngọc
|
Với những thước phim có được chủ yếu là nhờ may mắn ấy, mấy ngày sau, tôi đã kịp gửi về in trên báo Quân Đội Nhân Dân một số tấm ảnh, mà cho đến nay đấy có thể là những tấm ảnh hiếm hoi, thậm chí chưa chừng là duy nhất về nhà tù Tuolsleng (bây giờ đã trở thành Bảo tàng tội ác diệt chủng của chế độ Polpot), bởi ngay sau khi tôi chụp xong, tôi được biết là bộ đội ta đã buộc phải đem chôn hết các xác chết bởi quá ô nhiễm môi trường.
Tôi nói thế, vì ít lâu sau, có một nữ phóng viên Nhật Bản sang Campuchia để làm một cuốn album ảnh về nạn diệt chủng Polpot thì bà đã không tìm đâu ra các tấm ảnh cần thiết về nhà tù Tuolsleng, và vị này đã phải nhờ đến những tấm ảnh của tôi.
Thưa nhà thơ, có phải nhờ chuyến đi đó mà ông đã cho ra đời trường ca “Sông Mê Kông bốn mặt” và sau này được trao Giải thưởng Sông Mê Kông năm 2009?- Vào Phnom Penh, rồi sau đó đi nhiều nơi trên đất nước Campuchia, tận mắt chứng kiến tấn bi kịch khủng khiếp do bè lũ Polpot gây ra, đồng thời được chiêm ngưỡng những công trình nghệ thuật kiến trúc kỳ vĩ của nước bạn và được sống trong vòng tay thân ái của nhân dân Campuchia tài hoa và nồng hậu, tất cả đã gợi lên trong tôi những cảm xúc và suy nghĩ dường như bất tận.
Và thế là tôi đặt bút viết những dòng đầu tiên ngay trên đất bạn, mà sau này là lời đề từ của bản trường ca: “Tôi bế trên tay một em bé Campuchia đói khát/đến trước tượng người vũ nữ Ăng-co/ và dỗ nín em/bằng cặp vú đá của nàng”. Về Việt Nam, tôi miệt mài viết tiếp, ròng rã đến tháng 3.1981 thì hoàn thành.
Xin cảm ơn nhà thơ!