Chiều nay (30.5), bên hành lang Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Nguyễn Đức Kiên đã có cuộc trao đổi với báo giới. Ông Kiên nói:
- Trong phiên thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội chiều nay, tôi quan tâm tới hai vấn đề chính:
Một là việc nâng cao niềm tin của doanh nghiệp vào các chính sách điều hành của Chính phủ. Điều tra do các cơ quan chức năng mới công bố cho thấy, chỉ số niềm tin của các DN với các chính sách vĩ mô ngày càng giảm. Ví dụ như phần chỉ số về minh bạch, chống tham nhũng thì ở thời điểm 2011, chỉ có 28% DN khẳng định đã từng "bôi trơn" để được việc thì nay con số này đã lên tới 41%. Như vậy, nhiệm vụ của chúng ta thảo luận là để làm sao nâng cao niềm tin của DN vào các chính sách vĩ mô của Nhà nước.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên. |
Vấn đề thứ hai là việc triển khai thực hiện các chính sách. Tôi muốn nói tới một giải pháp dài hơi. Tức là từ nay tới kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, Chính phủ phải xây dựng được một đề án tổng thể trong 3 năm để khôi phục nền kinh tế, đề án này kéo dài tới 2016. Như vậy nó không phụ thuộc vào nhiệm kỳ của Quốc hội, cũng như nhiệm kỳ của Chính phủ hay kế hoạch 5 năm.
Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật là chúng ta đang rất khó khăn. Cho nên phải có những giải pháp quyết liệt, vượt qua tư duy nhiệm kỳ để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế. Rõ ràng tới thời điểm này, kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm, từ 2011 – 2015 không đạt kết quả. Do đó chúng ta phải điều chỉnh lại, phải tái cơ cấu nền kinh tế để tạo một động lực mới. Tái cơ cấu thì phải có chi phí.
Như vậy trần nợ công, tái cơ cấu đầu tư công, bội chi ngân sách là những khâu then chốt phải thực hiện bằng được trong kế hoạch 3 năm để phục hồi nền kinh tế. Còn cái tái cơ cấu các tổ chức tín dụng thì chúng ta đang làm và tôi hi vọng trong 2013, chúng ta sẽ giải quyết được tương đối căn bản.
Trong 6 nhóm giải pháp mà Chính phủ đề ra, theo ông đâu là nhóm giải pháp mà ông cho rằng sẽ có hiệu quả nhất?
- 1 trong 6 nhóm này là bảo đảm an sinh xã hội. Vừa qua, trong khi kinh tế suy thoái thì chúng ta vẫn cố gắng đảm bảo các chỉ tiêu về an sinh xã hội. Đây là một nỗ lực rất đáng hoan nghênh của Chính phủ.
Tuy nhiên, cái người dân đòi hỏi là các khoản chi cho an sinh xã hội dù tăng, nhưng nó tác động ra sao tới người dân thì thực tế, vẫn còn một khoảng cách nhất định từ lúc ban hành chính sách đến khi thực hiện. Hiện nay, cơ quan ban hành chính sách trong quá trình trình chính sách thường không trình kèm theo biện pháp hành động, cho nên thời gian để chính sách vào được cuộc sống bị kéo dài ra. Chính sự lệch pha này làm cho bức xúc xã hội nổi lên không đáng có.
Việc triển khai các chính sách chậm, gây bức xúc trong xã hội thì cần phải xem xét việc xử lý trách nhiệm những người liên quan ra sao?
- Tôi xin nói một ví dụ cụ thể là ngày 7.1.2013, Chính phủ có Nghị quyết 02 về xử lý một số vấn đề cấp bách của nền kinh tế, trong đó có gói kích cầu cho bất động sản là 30 nghìn tỷ. Thế nhưng, chúng ta thử tưởng tượng xem, phải đến tận ngày 15.5, Bộ Xây dựng và NHNN mới ký được Thông tư hướng dẫn tiêu chuẩn cho vay từ gói kích cầu này.
Đây rõ ràng là một sự bất cập khi mà Nghị quyết của Chính phủ đã có sự thảo luận, đồng tình của 23 thành viên Chính phủ, trong đó đương nhiên có cả Bộ Xây dựng và NHNN. Như vậy, chỉ riêng thời gian để hai “ông này” thống nhất được với nhau đã mất hơn 5 tháng, một sự vô lý hết sức. Còn việc xử lý như thế nào khi triển khai chính sách chậm: Xử lý ở mức độ nào, hình thức nào mới quan trọng, chứ chỉ nói xử lý không thì không giải quyết vấn đề gì.
Nhiều đại biểu đã bày tỏ sự nghi ngờ tính xác thực của các con số trong báo cáo của Chính phủ. Quan điểm của ông thế nào?
- Quốc hội cung cấp cho Chính phủ cái nhìn từ phía cử tri, từ phía đối tượng bị tác động, ảnh hưởng bởi các chính sách, điều hành của Chính phủ. Còn báo cáo của Chính phủ là báo cáo của cơ quan quản lý Nhà nước nên chỉ dựa trên số liệu cơ quan quản lý thu được. Tất nhiên hai cái này có thể vênh nhau.
Ví dụ như nói về chỉ số niềm tin của DN ở thời điểm hiện tại (2013), ĐBQH nói là thấp hơn nhiều so với thời điểm trước. Bởi theo số liệu điều tra của các cơ quan chức năng, có tới 48% các DN kể cả doanh nghiệp FDI và trong nước đánh giá chính sách vĩ mô của có nguy cơ gây rủi ro đối với DN, cộng thêm 22% số DN đánh giá sự yếu kém của lao động VN cũng tạo nên rủi ro cho DN. Cộng cả hai tỉ lệ này cho thấy khoảng 2/3 nguyên nhân dẫn đến rủi ro của DN được xác định là do yếu tố chủ quan, nội tại của nền kinh tế. Như vậy, đấy là điều đáng lo.
Với góc độ là ĐBQH, chúng tôi phải cung cấp thêm một cái nhìn như vậy để Chính phủ có được cái nhìn toàn diện, tổng thể hơn. Còn Chính phủ chỉ đơn thuần cộng các số liệu thống kê vào với nhau nên khó có thể có được một bức tranh hoàn chỉnh.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Hải Phong (ghi)