Sản xuất rau chưa ổn định đầu ra, gặp khó khăn trong việc bao tiêu sản phẩm.
Cụ thể rau cải trong các vùng chuyên canh ở TP. Bạc Liêu chỉ có giá 2.000 đồng/kg, nông dân không có lời. Hoặc vùng chuyên canh rau má ở HTX RAT Thân Cửu Nghĩa (Tiền Giang), mặc dù đã nỗ lực tìm đầu ra từ các cửa hàng, công ty, nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả. Hay việc tiêu thụ RAT tại Lương Nghĩa (Long Mỹ, Hậu Giang) vẫn còn rất chậm. Các công ty lớn ở TP.HCM chỉ tập trung thu mua những mặt hàng rau cao cấp như măng tây, nhờ đó loại rau này luôn có giá cao từ 60.000 - 120.000 đồng/kg.
Rau an toàn bày bán ở chợ vẫn chưa tạo được sự quan tâm cao của người tiêu dùng. |
Một số loại rau mang tính chất sản phẩm chỉ dẫn địa lý của vùng, hoặc đã có thương hiệu nhưng vẫn còn gặp khó khăn đầu ra. Ví như ở TP.Bạc Liêu ngò rí là loại rau đã có thương hiệu nhưng tiêu thụ chậm, măng tây sản xuất có hiệu quả nhưng cạnh tranh giữa các công ty lớn, chưa có sự bao tiêu sản phẩm rõ ràng... Việc tiêu thụ chủ yếu tự phát trong nông dân và thương lái. Chưa có nhãn mác công nhận sản phẩm RAT hay VietGAP nên người tiêu dùng thiếu an tâm. Thiếu chợ đầu mối và hệ thống HTX liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm rau, củ, quả. Tóm lại, đầu ra phụ thuộc mạnh vào các thương lái thu mua nhỏ nên nông dân thường xuyên bị ép giá.
Về cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, thủy lợi yếu kém, chưa chủ động đối phó với những diễn biến phức tạp của thời tiết, khí hậu như mưa lớn kéo dài, nắng hạn lâu ngày… làm cho người trồng rau thất thu lớn, ảnh hưởng đến đời sống. Người sản xuất rau ở các khu vực nông thôn ven đô thị có đất trồng phù hợp sản xuất rau chuyên canh nhưng đời sống còn nghèo, kinh tế kém phát triển, còn nặng nhiều phong tục, tập quán lạc hậu.
Kinh tế sản xuất rau chưa bền vững, sản xuất rau hiện tại chủ yếu theo kiểu truyền thống. Sản xuất RAT trong nhà màng, nhà lưới, và sản xuất rau mầm áp dụng công nghệ cao, theo tiêu chuẩn VietGAP chưa nhiều. Việc áp dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trên rau còn tùy tiện dẫn đến nhiều trường hợp ngộ độc cho người tiêu dùng. Việc sản xuất RAT chưa được tổ chức thành hệ thống và liên kết trên quy mô lớn từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
TS Nguyễn Công Thành