“Ma rượu”ám
Tôi biết đến làng Tung Chúc, xã Ia Khai, huyện Ia Grai (Gia Lai ) khá lâu từ một con số buồn - chỉ trong hơn 3 tháng đã có 4 người tự tử vì rượu. Chuyện lãng xẹt nghe như đùa mà cứ ám ảnh tôi cho đến bây giờ…
Kpuih Nih mới hơn 25 tuổi mà đã qua hai đời vợ. Vợ trước đã cho Nih một đứa con trai nhưng chán nỗi chồng lười lại hay rượu, vợ Nih bắt chồng khác. Vợ bỏ được một mùa rẫy, Nih bắt lại Rơ Mah Byui. Như người ta, vợ bỏ đi một lần thì phải biết sợ thế mà Nih, cái tật đứng đầu làng đã nghe cuối làng có mùi rượu vẫn không bỏ…
Hôm đó bên làng M’Yă bày việc uống rượu. Rượu bắt đầu từ lúc con gà xuống đất đến lúc mặt trời hết nắng vẫn chưa xong. Nhiều người say quá vật ra như cây chuối vặn gốc. Nih thì cái miệng không đóng lại được, chân đi cứ như bị ai cột dây. Thấy vậy anh rể phải lấy xe máy chở về. Cứ nghĩ say đến thế, có ai đổ rượu vào mồm cũng không nuốt nổi, thế mà Nih vẫn rủ người đi uống tiếp… Đến lúc này thì “mất thần kinh” rồi. Nih cứ đi đầu làng đến cuối làng, chân cày đất, miệng thì lẩm nhẩm như thầy cúng gọi ma…
Vợ ra kêu về ăn cơm, Nih chửi, xô ngã vợ. Bực trong bụng quá, Byui bỏ về nhà. “Cứ để nó nằm đấy cũng chẳng chết”- Byui nghĩ vậy. Nào ngờ sáng ra đang sửa soạn đi làm thì thấy bà già xô cửa, tay chỉ ra vườn… Lập cập đi theo, Byui chết đứng như cái cột bị đóng xuống đất: Nih đã tự treo cổ lên cây điều đâu từ hồi đêm…
Bà Ph’Yơng tự tử trước đó hơn chục ngày, bây giờ Nih chết. Chưa hết ngơ ngác thì hơn 2 con trăng sau Rơ Lan Vi rồi Rơ Châm Jeh cũng tự tử vì rượu. Buồn nỗi người xấu số lại phải làm “con ma xấu”, không được ông bà nhận về ở “làng ma”…
Tung Chúc vốn là “làng cách mạng”. Hết chiến tranh trở về chốn cũ, cũng “đất ông bà” nhưng mọi điều đã khác. Nắng gió, đạn bom chiến tranh đã vắt kiệt đất rồi. Cây lúa rẫy mọc lên cứ khô nghẹn trong con mắt. Làng, nhìn đâu cũng những căn nhà dài lợp nứa xù lên như những con sâu róm chơ vơ trên trảng đất không một bóng cây nuôi sống được người. Hơn một nửa làng mới buông cuốc đã hết ăn.
Nguồn sống mùa đói là hái lượm quả rừng và làm thuê. Ai được gọi làm thuê (công mỗi ngày 3 lon gạo) thì xem đó là sự hãnh diện… Ma đói đứng cửa trước, ma rượu phục cửa sau. Làng như bất tận trong cơn say này qua cơn say khác. Việc vui, việc buồn bày rượu đã đành, việc không đâu cũng rượu. Buồn, uống cho quên sự đói, cho khỏi lo ngày mai chưa biết làm gì để có cái ăn…
Và câu chuyện về “những nhà giàu”…
Hồi đó Rơ Lan Ging cũng đã trải qua những ngày như thế, cũng chẳng biết cuộc sống sẽ trôi về đâu nếu không có Công ty 715 mở đến vùng đất này. Bộ đội đến vận động đi công nhân, vợ chồng Ging là một trong những người đi đầu. Đang đói, mà có gì để mất ngoài cái nhà sắp sập? Chỉ vài năm sau, cuộc sống ai ngờ thay đổi hẳn. Chỉ một suất lương cũng đủ nhu cầu ăn uống. Suất còn lại thì để dành. Con heo lớn thành con bò. Nhiều con bò thành thửa đất…
“Gần chục năm tích cóp, giờ thì mình đã có 1 ha điều, 700 cây cao su tiểu điền, 2,5 sào cà phê... Nhà cửa, vật dụng sắm đủ rồi, năm kia học lái rồi mua cái ô tô để đi rẫy cho khỏi mưa gió. Nhiều người thấy thế cứ tưởng mình giàu nhất làng. Không phải đâu. Bọn trẻ bây giờ nhiều đứa “kinh” lắm. Tiền có thừa nhưng chúng cứ âm thầm tích luỹ. Cứ kể như Rơ Châm Dih: Năm nay nó mới hơn 30 tuổi mà đã có trong tay 1,3ha cao su tiểu điền, vừa mới trồng thêm 670 cây nữa; lại còn nửa ha cà phê, 6 con bò, 3 suất cạo công nhân, một chiếc xe chở thuê… Tính sơ sơ, mỗi năm vợ chồng nó thu ngon 300 triệu… Cái ô tô của mình có là gì đâu !”.
Câu chuyện với Rơ Lan Ging đã cho tôi hiểu ra một điều: Để mỗi ngôi làng thoát nghèo, trước hết phải tạo nên một lớp người tiên phong. Họ đã đánh thức lòng tự trọng của đồng bào mình để xúc tác cho một phản ứng dây chuyền… Đây chính là nguyên nhân đã khiến Tung Chúc từ đói nghèo lạc hậu, đắm chìm trong hủ tục đã như có phép nhiệm màu: 100% hộ có nhà xây - trong đó 50% số hộ đã xây “nhà Thái” trị giá từ 200 triệu trở lên. Cả làng hiện chỉ còn 7 hộ nghèo bởi hoàn cảnh neo đơn, không có sức lao động…
Đến Tung Chúc bây giờ có lẽ ai cũng phải cảm cường độ làm việc của họ: Giữa đêm, từng lô cao su đã chấp choá ánh đèn cạo mủ. Tảng sáng, nhà nhà đã hối hả chuyển sang trút mủ. Chiều chưa buông đã lại quày quả ra rẫy… Họ làm việc như thể bù đắp cho quãng thời gian vô vị đã qua…
Tình cờ tôi gặp lại Ksor Tùng, người đã đưa tôi đi “thị sát” chuyện rượu chè dạo nọ… Chưa kịp hỏi, Tùng đã phân bua thay cho lời chào “làng hết say rồi, bây giờ ai cũng lo làm ăn thôi!” Rồi anh ngượng nghịu cười như thể chính mình có lỗi…