Một tiền gà, ba tiền thóc
GS-TS Hoàng Đạo Kính- thành viên Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam chua chát tâm sự: “Bây giờ cứ nghe thấy chuyện tỉnh nọ tỉnh kia làm hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu di sản, đổ tiền ra để hoàn thành các khảo sát, thủ tục là tôi sợ. Mỗi khi nghe thấy công bố về hàng chục, hàng trăm tỷ đồng đầu tư cho tôn tạo di tích này nọ là tôi lại lo.
Nghe thấy địa phương A hay B tổ chức lễ đón nhận bằng công nhận di tích rềnh rang tốn kém là tôi thấy buồn, bởi lẽ có khi nghi lễ tiêu tốn nhiều tiền hơn cả số tiền mà di tích ấy cần cho việc trùng tu. Lo hơn là chúng ta đang đi vào chủ nghĩa hình thức ngay trong việc giữ gìn vốn liếng mong manh của cha ông”.
Tâm sự của vị giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực trùng tu, bảo tồn di sản chắc chắn sẽ khiến nhiều người trong chúng ta phải suy nghĩ. Quả là trong thời gian 2 thập kỷ gần đây, phong trào đua nhau “lên đời” cho di sản đang phát triển khá rầm rộ theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”. Tỉnh A thấy láng giềng có mấy di sản mà mình không có thì chạnh lòng, thế là cũng phải vào cuộc chạy đua với mục đích dùng di sản phát triển du lịch và từ đó nâng cao vị thế kinh tế, chính trị, văn hóa của địa phương.
Các con số thống kê cho thấy, cả nước hiện có hơn 3.000 di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Riêng Hà Nội đã có 5.100 di tích các cấp. Nếu di tích nào cũng được phong tặng danh hiệu di tích, di sản, để từ đó lập hồ sơ xin kinh phí trùng tu (trung bình khoảng 10 tỷ đồng cho một di tích) thì ngân sách sẽ phải chi một con số khổng lồ, có lẽ không có cơ chế tài chính nào chịu nổi.
GS-TS Hoàng Đạo Kính cho biết trong hơn 3.000 di tích quốc gia thì phải có 1/3 trong số đó, sau khi được xếp hạng thì ngay cả địa phương cũng không biết ứng xử thế nào dẫn đến tình trạng nhiều đình, chùa bị xuống cấp, người quản lý cơ sở thờ tự đã tự ý trùng tu dẫn đến sai lệch...
“Đó hoàn toàn là hậu quả của việc có quá nhiều di tích được xếp hạng nên không đủ sức quản lý. Di tích phải sống đời sống của nó cùng cộng đồng dân cư, không thể cứ bắt nó bất động, dột nát cũng không được sửa chữa, trong khi chờ để các dự án trùng tu được phê duyệt thì phải mất rất nhiều thời gian”- GS Kính cho biết.
PGS-TS Lương Hồng Quang- Phó Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật (Bộ VHTTDL) cho biết: “Di sản hóa” là một xu hướng thịnh hành ở Việt Nam gần đây. Lý thuyết này được một học giả người Anh đặt ra trong những năm 1970, chỉ ra việc nhà nước can thiệp rất nặng vào di sản của cộng đồng. Xu hướng này dẫn đến nhiều hệ quả: Một mặt là sự khát khao danh hiệu, chạy theo và kiếm tìm sự tôn vinh danh hiệu; mặt khác, di sản cũng đang được sử dụng như một thế mạnh và tiềm năng để phát triển du lịch.
Được chưa hẳn đã mừng
Với một đất nước có bề dày lịch sử hàng nghìn năm như Việt Nam thì cho đến nay, 21 di sản được UNESCO công nhận cũng chưa phải là nhiều, chỉ cần nhìn ngay các quốc gia châu Á như Trung Quốc đã có tới 43 di sản, Ấn Độ 29... thì con số 21 của chúng ta vẫn còn khiêm tốn. Song, danh hiệu nếu không được đặt đúng chỗ thì cũng chỉ là hư danh. Và quan trọng hơn là làm sao giải được bài toán mâu thuẫn giữa một bên là bảo tồn và một bên là phát triển.
Khi một di sản được UNESCO công nhận hoặc được nhận bằng di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, di sản hay di tích đó nghiễm nhiên phải tuân thủ chặt chẽ Luật Di sản, bất cứ sự động chạm, sửa chữa, tác động nào vào di tích đều phải có sự thỏa thuận và đồng ý bằng văn bản của cơ quan quản lý cao nhất là Bộ VHTTDL.
Thế nhưng các địa phương lại có tâm lý “chúng tôi đã mất bao nhiêu thời gian, tiền bạc, công sức để làm thành công hồ sơ xin phong danh hiệu cho di sản của địa phương, không có lý gì lại không được đem ra khai thác, chả nhẽ cứ sơn son để thờ”.
Từ đó bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, một bên các nhà chuyên môn, quản lý văn hóa thì yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt, một bên địa phương lại muốn đưa di sản vào khai thác để thu hút khách du lịch nhằm phát triển kinh tế. Có không ít những bài học “đắng lòng” đã xảy ra do tình trạng nôn nóng và thiếu kiến thức chuyên môn về bảo tồn của các địa phương.
Còn nhớ năm 2008 và 2009, UNESCO đã có cảnh báo về tình trạng ô nhiễm tại vịnh Hạ Long, rồi cố đô Huế, phố cổ Hội An cũng đã bị nhận những cảnh báo do tham vọng khai thác với một tầm nhìn ngắn hạn… Cuối năm 2010, Ngân hàng Phát triển Đức KFW đã yêu cầu tỉnh Quảng Bình hoàn trả số tiền 200.000 euro trên tổng số 360.000 euro mà KFW đã tài trợ cho dự án Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Lý do là địa phương quản lý chưa tốt, việc cháy rừng vẫn thường xuyên xảy ra, nguồn nước của động ngày càng ô nhiễm và có rác thải du lịch.
Bên cạnh đó, việc cùng lúc ồ ạt có quá nhiều di tích, di sản được phong tặng danh hiệu nhưng đội ngũ chuyên gia làm công tác bảo tồn hay quản lý, phát huy giá trị di sản phi thì chưa phát triển kịp sẽ làm nảy sinh tình trạng biến dạng, sai lệch di sản.