Trần Nhữ Giáp được đánh giá là người có công đầu trong việc đưa trĩ đỏ khoang cổ ra khỏi danh sách đỏ. Tuy không phải là người nuôi trĩ sinh sản đầu tiên tại Việt Nam nhưng anh lại là người nuôi quy mô lớn nhất, cung ứng ra thị trường cả ngàn, cả vạn cá thể.
Một loài chỉ được đưa ra khỏi sách đỏ khi có trên 2 vạn cá thể ở một vùng lãnh thổ hay một quốc gia, điều kiện ấy thì con trĩ ở Việt Nam đang có thừa. Từ một con vật quý hiếm, giờ trĩ đỏ được nuôi lấy thịt rất phổ biến trên phạm vi toàn quốc và có giá bán thương phẩm chỉ nhỉnh hơn giá thịt gà.
Sắp tới anh sẽ giúp đưa chim công ra khỏi sách đỏ cũng bằng con đường nhân rộng quy mô nuôi tương tự như trĩ. Từ 18 con công giống giờ đây anh đã nhân được hơn 600 cá thể. Cũng trong quá trình nuôi Trần Nhữ Giáp là người đã nghĩ ra cách lai tạo ra một dòng mới là công ngũ sắc với trắng, xanh, lục, lam và màu hạt dẻ.
Ngoài đàn trĩ, công đông đảo, Vườn chim Việt còn có một đối tượng nuôi vô cùng đặc sắc là sâm cầm. Đàn sâm cầm ở đây có trên 100 con trong đó 16 con non sinh sản ngay tại trại. Có lẽ anh là người đầu tiên ở Việt Nam nhân giống thành công loài chim ăn nhân sâm đầy bí ẩn này.
Truyền thuyết kể rằng dân trong một làng ở xứ Cao Ly (Triều Tiên) mắc loại bệnh kì lạ không thuốc nào chữa nổi, không thầy lang nào phán đúng nguyên nhân nên cứ thế họ chết dần, chết mòn.
Khi bóng ma tang tóc đã phủ mờ khắp làng xóm, cô con gái của người thợ săn chợt nhớ lại chuyện xưa cha kể lại ở trên dãy núi Trường Bạch có một loài chim thường ăn rễ của một loài cây. Do ăn rễ loại cây này mà chim có thể chống chịu được cái lạnh của băng tuyết, đề kháng được mọi loại bệnh tật. Mừng quá, cô liền lên đường tìm núi Trường Bạch.
Cái lạnh cắt da, cắt thịt cùng với đá nhọn lởm chởm dưới chân khiến cô kiệt sức và ngất khi leo đến đỉnh núi. Tỉnh dậy cô gái nhìn thấy một bầy chim đang ra sức đào bới một gốc cây nhỏ gần đó để ăn.
Học theo loài chim cô lấy hết chút sức tàn lê mình đến bới được mấy cái rễ ăn cho đỡ đói. Kỳ lạ thay, ăn đến đâu người khỏe ra đến đấy nên đào thật nhiều mang về phát cho những người đang nằm chờ chết ở quê nhà.
Nhờ nhai rễ cây này mà cả làng cô đã thoát chết khỏi căn bệnh quái ác. Kể từ đó người làng cô gọi cây đó là nhân sâm và loài chim ăn sâm là sâm cầm.
Theo trào lưu ăn sâm cầm của các ông hoàng bà chúa bên Trung Hoa, vào thế kỷ thứ 19, tại Việt Nam, vua Tự Đức đã ra một chỉ dụ đặc biệt: “Cứ như lời tâu thì sâm cầm là món ăn ngon, lại là thứ thuốc rất bổ nên sắc cho tỉnh Hà Nội sức bảo dân làng Nghi Tàm hằng năm đến mùa phải có mười đôi chim tiến cống càng sớm càng hay”.
Chim được tiến vua phải được chọn lọc một cách rất đặc biệt. Trọng lượng trung bình của loài chim này chỉ khoảng dăm lạng nhưng chim tiến phải nặng trên bảy lạng. Mỗi khi dân làng không nộp đủ 10 đôi sâm cầm vào cung sẽ bị phạt vạ.
Nếu chỉ tiến vua thôi thì cũng không đến nỗi, đằng này ăn theo lệnh tiến ấy là bao cửa ải từ lý trưởng, chánh tổng đến các bậc quan lại xem xét việc cống nạp, là biết bao đôi sâm cầm khác phải đi theo.
Từ một đặc sản, sâm cầm trở thành nỗi khiếp hãi của người dân Nghi Tàm nên họ phản đối kịch liệt đến mức năm Tự Đức thứ 24, lệ tiến cống được bãi bỏ.
Thực chất, sâm cầm là một loài chim nước còn có tên gọi là cốc vộc, thân chỉ nhỉnh hơn con le le chút ít, nặng chừng dăm bảy lạng. Đầu và cổ chim có lông đen, mỏ nhọn màu vàng nhạt đặc biệt có mào là một cục thịt màu trắng ngà hơi nhú lên.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, sâm cầm là giống chim di cư. Mùa đông chúng từ phương Bắc bay về phương Nam tránh rét. Trong chặng đường viễn du dằng dặc hàng vạn dặm ấy hồ Tây trở thành một điểm dừng chân.
Chân sâm cầm có ba cái “đồng xu”
Đã có thời ở hồ Tây đen đặc bóng sâm cầm ngụp lặn. Chúng bơi lội như vịt, lùng sục ven các bãi bờ bắt tôm, mò tép. Đã có thời sâm cầm đi vào tục ngữ, ca dao: “Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm/ Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây”. Thế rồi những họng súng, những tay lưới khiến cho bầy chim ấy tan tác, vắng biệt bóng ở hồ Tây.
Cho chim uống nhân sâm
Sâm cầm ngày nay dần trở nên hiếm đến mức có tiền cũng phải đặt cả tháng may ra mới được vài con hoặc kém may mắn hơn là xơi nhầm hàng giả sơn cầm đội lốt sâm cầm.
Sơn cầm hình dáng khá giống sâm sầm, chỉ khác hai đặc điểm là chân không có ba đồng xu (ngón chân có màng nhỏ như đồng xu) và đầu không có cục sừng trắng. Sơn cầm có giá chỉ vài chục ngàn đồng một con nhưng sau màn phù phép đã hóa tiền triệu, hóa thành món ăn của ông hoàng bà chúa thời nay.
Khi những chủ doanh nghiệp bự, quan chức to rủ nhau vào nhà hàng, khách sạn để xơi sâm cầm thì Trần Nhữ Giáp lặng lẽ đi trước một bước, sưu tập chúng về nuôi sinh sản.
Điều kiện nuôi nhốt được anh mô phỏng giống như tự nhiên chúng sinh sống, cũng có mặt nước, cũng có bèo, có cây. Thế là những con sâm cầm đực mắt đỏ, mồng to quên mất cảnh giam hãm tù đầy để điềm nhiên leo lên mình lũ chim mái. Chúng giao phối ở ngay trên mặt nước giống như vịt.
Sau cuộc yêu, sâm cầm mái tự tha bèo tây trong chuồng để lót ổ đẻ. Mỗi mùa chúng đẻ từ 4-8 trứng. Khi ấp trứng sâm cầm mái rất nhút nhát, tay người động vào là bỏ tổ nên cần tuyệt đối giữ yên tĩnh. 16 con sâm cầm non đã được ra đời theo phương pháp này ở trại. Hiện chúng đã thau tháu lớn bằng cha, bằng mẹ để bước vào độ tuổi sinh sản.
Trong quá trình nuôi sâm cầm, những con không đủ tiêu chuẩn làm giống sẽ bị thải loại. Trần Nhữ Giáp phát hiện ra một điều là thịt sâm cầm bắt trong tự nhiên ngon ngọt nổi tiếng nhưng khi nuôi nhốt trở nên nhạt dần, không khác thịt như chim thông thường.
Bởi vậy, ngoài bổ sung giá đỗ, mộng mạ, định kỳ hằng tuần lũ sâm cầm còn được chủ nhân cho uống nước sâm Cao Ly chính hiệu để có được độ ngọt, mùi thơm như chim trong tự nhiên. Sinh sản được trong môi trường nuôi nhốt đã mở ra hướng đi mới cho Vườn chim Việt là nuôi sâm cầm thương phẩm.
Miên man về chuyện loài chim ăn củ sâm, anh kể với tôi dự định một hai năm tới sẽ tặng lại cho Hà Nội 50-100 con sâm cầm để thả xuống hồ Tây cho thỏa ước mơ: “Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ, vỗ cánh mặt trời” (nhạc Trịnh Công Sơn). Bầy sâm cầm ấy đã được thuần hóa, không di cư nữa mà thành công dân đặc biệt của Thủ đô.