Đó là khi bóng đứa con gái và cháu gái yêu thương của họ quay trở về nhà, chạy ùa vào ôm lấy đôi vai gầy mà khóc mà hờn cho bõ những tháng ngày xa cách. Nhưng cho đến giờ, đó vẫn chỉ là giấc mơ xa vời của cặp vợ chồng già vò võ chờ con chờ cháu trong bất hạnh, buồn thương.
Mẹ già mỏi mắt ngóng tin con
Con đường đất dẫn vào nhà chị Nguyễn Thị Mùi (SN 1970, trú thôn Phước Điền, xã Hải Thành, Hải Lăng, Quảng Trị) ướt nhão nhoẹt vì cơn mưa rào tầm tã. Ngồi trước cánh cửa nhà có một bà lão đã ngoài 80, gầy nhom, lưng còng sát đất, đôi mắt đục ngầu hướng nhìn về một khoảng không vô định như chờ mong một thứ gì đó trong tuyệt vọng. Bất giác, đôi mắt ấy bừng sáng hẳn lên khi tôi hỏi “có phải nhà chị Mùi ở đây không ạ”. “Đúng, đúng rồi, có tin gì của nó hả chú, nó đâu, nó đâu rồi chú?” – cụ bà hỏi liên tục và ngoái nhìn khắp nơi. Cố bước nhanh ra hiên nhà, cụ ông dáng người gầy còm, ốm yếu cũng nhìn tôi với ánh mắt đầy hi vọng.
Tôi hiểu, 17 năm nay họ đã cạn khô dòng nước mắt, mong con, cháu đến từng phút giây. Bất giác, tôi tự trách mình rằng không mang được chị Mùi về cho hai cụ.
Lúc đó, chị Th mới vừa tròn 20 tuổi. Tuổi thanh xuân của chị là quãng đời đau đớn ê chề nơi đất khách quê người. Ngay khi sang Trung Quốc, chị bị ép phải bán trinh. Tiếp đó chúng năm lần bảy lượt bán chị từ nơi này sang nơi khác, từ nhà thổ này sang “mẹ mìn” kia. Và điểm dừng chân cuối cùng là khi chị bị bán để làm “vợ” cho một người đàn ông hơn mình 14 tuổi. Không chấp nhận số phận, chị tìm cách bỏ trốn. Vậy nhưng, vì không có tiền nên không thể chạy được xa. Sau mỗi lần trốn chạy bất thành, chị bị đánh đập dã man. Nhà chồng dọa chị nếu không chấp nhận làm vợ, sẽ bị đem bán vào nhà chứa. Nghe tới nhà chứa, chị khiếp sợ. Chị biết, một khi đã bước chân vào đó, sẽ khó có cơ hội thoát thân nên đành chấp nhận sống, làm việc và tích lũy tiền chờ cơ hội chạy trốn.
Sau một năm bị đọa đày, năm 1998, chị sinh được một đứa con gái. Đứa con là niềm an ủi để chị tiếp tục chống chọi với nỗi đau bị đánh đập, hành hạ. Trong 7 năm làm dâu xứ người, chị trốn chạy thành công được 6 lần. Nhưng vì tình mẫu tử, cứ sau một thời gian trốn chạy chị lại quay về “nhà chồng”, nơi đày đọa chị để thăm con. Chị Th. cho hay: “Trốn thoát về được quê nhà tui vui mừng khôn tả nhưng hằng đêm, mỗi lần nhắm mắt là gương mặt của con gái lại hiện ra trước mặt, nó gọi tên tui khiến tui không sao ngủ được, tui nhớ con, nước mắt cứ trào ra”. Ở quê nhà, cứ mỗi lần nhớ con, chị Th. lại nằm ôm gối khóc và cất lời ru buồn tủi ở biên giới bên này để ru con ở bên kia biên giới. Lời ru da diết tuy không đến được bên con nhưng nó vơi bớt nỗi buồn của chị.
Mãi đến năm 2005, khi con gái tròn 7 tuổi chị mới đành dứt áo ra đi vĩnh viễn. “Đến giờ tui vẫn muốn qua thăm nó nhưng mà điều kiện không cho phép, cũng không biết làm cách nào để liên lạc với nó. Không biết giờ con tui thế nào, có khỏe không, đã lấy chồng hay chưa, có còn nhớ tui hay không” – những câu hỏi đó cứ dằng xé tâm trí chị. Dù Trung Quốc là mảnh đất đã chôn vùi tuổi thanh xuân của chị, nhưng tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng không gì lay chuyển được. Ngày ngày chị vẫn làm việc, dành dụm tiền với ước mơ sẽ có một ngày quay trở lại Trung Quốc thăm đứa con gái chị rứt ruột đẻ ra và nói với nó rằng chị yêu và nhớ nó đến nhường nào.