Lắng trong đất đai hồn nhiên
Mỗi vùng đất Việt đều có những loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng. Bài chòi là bộ môn nghệ thuật độc đáo không thể thiếu trong các cuộc lễ hội của người Nam Trung Bộ, để giải trí, thử vận hên xui trong năm…
Một hội đánh bài chòi ở Quy Nhơn (Bình Định). HÙNG PHIÊN.
Theo GS - TS Trần Quang Hải – hiện đang sinh sống tại Pháp, chưa ai xác định cụ thể thời điểm khởi nguồn của bài chòi. Có giả thiết, bài chòi do danh nhân Đào Duy Từ (1571 - 1634) ở miền Bắc vào Bình Định phát triển từ kiểu “hát ống” của những người canh rẫy. Ấy là thuở khẩn hoang, việc trồng trọt thường bị thú rừng lấn phá. Bà con nông dân bèn dựng những chòi cao, kèm dàn âm thanh (trống, mõ, phèng la) để trấn áp, xua đuổi thú hoang. Lúc nghỉ việc, bà con chế ra ống tre (một đầu bịt da ếch) rồi nối dây trò chuyện giữa các chòi. Nói suông cũng chán, bà con lấy ca dao “hát ống” đối đáp. Sau đó, ông Đào Duy Từ phát triển hệ thống thẻ bài thành trò chơi “đánh bài chòi”.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử, nghệ thuật bài chòi cũng kinh qua lắm thăng trầm, đúc kết. Từ giải trí trên rẫy đến trình diễn quy mô nhỏ (bài chòi chiếu, bài chòi rong) đến hội chơi bài chòi; từ bài chòi đất đến bài chòi giàn, rồi bài chòi diễn trên sân khấu; từ diễn xướng dân gian, một bộ phận đã chuyển thành loại hình sân khấu truyền thống mang tính chuyên nghiệp (ca kịch bài chòi). Dù sân vườn hay sân khấu, sức sống của bài chòi với khung cảnh, chất giọng đặc trưng của người Trung Bộ luôn là một niềm yêu chuộng trong đời sống thôn dã, nhất là một dịp tết đến, xuân về.
TS Nguyễn Bình Định -Viện trưởng Viện Âm nhạc cho rằng, xét về mặt giá trị nghệ thuật di sản văn hóa phi vật thể, bài chòi vừa mang tính trình diễn, vừa mang tính thực hành xã hội tổng hợp. Và nó mang đến cho công chúng cùng tham gia thưởng ngoạn đồng thời nhiều thể loại nghệ thuật khác nhau như dân ca, thơ, trò diễn, chuyện kể, diễn tấu nhạc cụ… Cũng diễn trích đoạn sân khấu nhưng khác với tuồng hoặc hát bội, bài chòi không có phông cảnh sân khấu và diễn viên chỉ cần bộ quần áo thông thường. Đặc biệt, việc một người có thể đóng nhiều vai khác nhau một cách tự nhiên, gần gũi, dễ hiểu mà sâu sắc. Nghệ sĩ “chân đất” còn có thể ứng tác, độc diễn hồn nhiên tại chỗ - ấy là điểm độc đáo then chốt của nghệ thuật bài chòi dân gian.
Ví như trong hội đánh bài chòi, khó mà không vui nhộn với câu Hô thai của “anh Hiệu” bằng giọng thổ âm Quảng Nam: “…Huớ anh ơi! Anh thương chi hung rứa để bốn cẳng giường nó rung rinh… Huớ là con Tứ Cẳng!”…
Nhìn bài chòi từ nhiều phía
GS - TS Yves Defrance (Pháp) nhìn thấy ở bài chòi có điểm chung với nghệ thuật truyền thống Âsiklik của những người hát thơ cổ của Thổ Nhĩ Kỳ. Đó là những người di cư từ cộng đồng này đến cộng đồng khác, sử dụng những đoạn thơ kể có phần ngẫu hứng dựa trên những câu chuyện truyền thống. “Thế nhưng nghệ thuật bài chòi có sự độc đáo, giá trị khác biệt. Sự ngẫu hứng của người nghệ sĩ được đẩy lên rất cao, cực kỳ phong phú và thú vị; mang tới đề tài trình diễn mà người dân quê mong đợi. Vì thế, bài bản bài chòi dựa trên lời ca văn học và những mô hình giai điệu khác nhau; cùng một vở diễn nhưng không bao giờ diễn giống nhau y chang. Bài chòi là một ví dụ hay về sự sáng tạo dân gian và sự đa dạng văn hóa trong những loại hình nghệ thuật trình diễn truyền thống ở Việt Nam”- GS-TS Yves Defrance nói.
Rất nhiều ý kiến của các chuyên gia quốc tế đã nhận định, bài chòi - từ trò chơi phát triển thành một loại hình nghệ thuật trình diễn mang tính hài hước và kể chuyện, là một phong cách văn hóa đặc biệt riêng có của Việt Nam. Đây sẽ là một luận điểm quan trọng để Việt Nam tiến hành xây dựng bộ hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di sản cho nghệ thuật bài chòi miền Trung.