Tomas Tranströmer qua đời tại Stockholm, Thụy Điển. Sau một lần đột quỵ năm 1990, ông không còn nói được nhưng vẫn tiếp tục viết thơ và chơi đàn piano bằng tay trái.
Tomas Tranströmer sinh năm 1931 tại Stockholm, là nhà văn, nhà thơ, dịch giả nổi tiếng thế giới. Ngoài ra, ông còn là nhà tâm lý học. Tomas Tranströmer được ca ngợi rộng rãi ngay từ khi ra mắt tập thơ đầu tiên mang tên 17 Poems (17 bài thơ) năm 1954 - khi tác giả 23 tuổi. Ông được công nhận là nhà thơ Thụy Điển đương đại vĩ đại nhất từ lâu trước khi giành giải Nobel.
Năm 1990, ông nhận giải thưởng lớn Neustadt International Prize for Literature. Ông là tác giả Thụy Điển thứ sáu từng giành giải Nobel trong lịch sử giải này. Tomas Tranströmer cũng là một trong những nhà văn quan trọng nhất vùng Scandinavia từ sau Thế chiến hai.
Chân dung cố nhà thơ Thụy Điển Tomas Tranströmer. |
Ông đã xuất bản hơn 10 tác phẩm, trong đó có Windows and Stones (1966), Baltics (1974), The Great Enigma (2004)... Tác phẩm của ông được dịch ra hơn 60 thứ tiếng và có tầm ảnh hưởng toàn cầu, đặc biệt là ở các quốc gia Bắc Mỹ. Hai đề tài chủ yếu trong thơ của Tranströmer là thiên nhiên và cuộc sống thường ngày.
Báo Thụy Điển Dagens Nyheter ca ngợi quyền năng của Tomas Tranströmer khi biến những điều thường nhật trở nên gây sửng sốt. "Bài thơ C Major của ông gần như độc nhất vô nhị trong lịch sử văn chương, bởi nó vừa mô tả vừa hiệu triệu được nỗi mừng vui thuần khiết". Thơ ông giản dị, có màu lạnh, tinh khiết đến ngạc nhiên. Những mô tả thiên nhiên trong thơ ông sống động và tiết chế giống như tranh Nhật. Ở nửa sau cuộc đời, ông cố gắng viết thơ haiku bằng tiếng Thụy Điển.
Peter Englund, thư ký Viện Hàn lâm Thụy Điển nói: "Một bí mật khiến nhà thơ thành công toàn cầu là ông viết về những điều thường nhật. Ông rất kiệm từ, một cuốn sách bỏ túi khoảng 220 trang có thể chứa hết toàn bộ sự nghiệp của ông. Độc giả cũng có thể đọc hết các bài thơ của tác giả chỉ trong một buổi tối".
Hai nhà phê bình văn học Richard Lea và Alison Flood ca ngợi: "Tomas Tranströmer là người sáng tạo kín đáo có lối viết tinh giản nhưng đọng lại trong lòng người đọc. Điều đó là một thách thức khi chuyển ngữ bởi những lời chữ mỏng manh của ông rất có thể tan ra như băng khi sang ngôn ngữ khác. Thế giới mà ông nhìn nhận đôi khi khủng khiếp và yếu đuối nhưng luôn đầy hy vọng. Thơ của ông lấp lánh như bạc vào tay kẻ cầm đồ".
Tuyển tập gồm 11 tập thơ của Tranströmer từng được xuất bản ở Việt Nam từ năm 2000. |
Dù công việc chính là nhà tâm lý học, những tác phẩm của Tomas Tranströmer viết về trí tuệ con người không hề khiến người đọc thấy bóng dáng nào của công thức hay nghề nghiệp chuyên môn. Đằng sau những khuôn dạng từ ngữ kinh điển là ngọn lửa lãng mạn lớn. Ông nhạy cảm với những chuyển động hay đổi thay của đời sống, cũng như đề cao hiện thực cũng như các khoảnh khắc.
Per Wästberg, một thành viên khác của Viện Hàn lâm Thụy Điển và là bạn từ thời thơ ấu của Tomas Tranströmer chia sẻ: "Thơ Tomas Tranströmer mở ra cánh cửa dẫn người đọc tới bản ngã của mỗi người. Ông luôn khiến người đọc thấy cuộc sống rất đáng trân quý".
Ở Việt Nam, một tuyển tập do Tranströmer sáng tác từ 1954 đến 1996 từng được thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh dịch và xuất bản năm 2000 với tên gọi Toàn tập thơ. Trong tuyển tập này gồm các tập như 17 bài thơ (1954), Những bí mật trên đường (1958), Bầu trời một nửa đã xong (1962), Rào cản của chân lý (1978), Du thuyền tang lễ (1996).
Một trong hai con gái của nhà thơ là ca sĩ dàn nhạc giao hưởng. Năm 2011, cô từng xuất bản album bao gồm những ca khúc lấy cảm hứng từ thơ của cha. Cô cũng từng đến Việt Nam năm 2012.