Dân Việt

Ký ức khó quên về cuộc chiến chống Mỹ

Huyền My (lược dịch) 29/04/2015 00:05 GMT+7
50 năm trước, quân đội Mỹ đã đặt chân đến Việt Nam. Max Hastings- lúc đó mới 24 tuổi cũng có mặt vào những ngày đó, với tư cách là phóng viên của Hãng tin BBC TV, tận mắt thấy đội quân nông dân Việt Nam với vũ khí thô sơ mà vẫn chống lại súng đạn hiện đại của binh lính Mỹ. Một cảnh tượng khủng khiếp đã ám ảnh ông đến tận hôm nay.

Nhân 40 năm sau khi cuộc chiến kết thúc, Việt Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, nhà báo người Anh này đã có bài viết đăng trên tờ Dailymail, lột tả một cách trung thực cuộc leo thang quân sự của quân đội Mỹ tại chiến trường Việt Nam.

Những dấu chân đầu tiên

img
Max Hasting (đeo kính) trong những ngày đưa tin về cuộc chiến ở Việt Nam. Dailymail

Đến tận hôm nay, khi nhắc đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam, vẫn để lại những cảm xúc mãnh liệt hơn bất kỳ cảm xúc nào do các cuộc xung đột trong thế kỷ này ở Iraq hay Afghanistan gây ra. Việt Nam đã phải hứng chịu 4 chiến dịch ném bom được tiến hành bởi quân đội Mỹ. Phía Mỹ tổn thất 3.720 phi cơ và 5.000 trực thăng. Nhưng có đáng là gì so với cái chết của 2 triệu người Việt Nam, Lào và Campuchia vô tội.

Tôi đã ở đó. Giống như một triệu người khác, những ký ức sống động sẽ không bao giờ phai nhòa trong tâm trí tôi- hình ảnh bình minh rực lửa, tiếng cánh quạt trực thăng cắt gió ào ào, tiếng súng rền vang không ngớt trên cánh đồng lúa, không gian tĩnh lặng đáng sợ, những người nông dân và chiến sĩ Việt Nam với những khuôn mặt lạ lẫm, và rồi những cột khói đen ngòm, dày đặc ồ ạt bốc lên từ các thôn làng bị dội bom hoặc đạn pháo.

Đối với thế hệ các nhà báo đến từ khắp thế giới như chúng tôi, Việt Nam quả thực là nơi chúng tôi muốn đặt chân đến để khám phá một khúc ca bi tráng, và nói một cách thành thực thì để thử “lửa” sức trẻ đầy hoài bão của mình.

Mỹ đã bắt đầu ngấm ngầm thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam không phải vào năm 1965, mà chính xác là 20 năm trước đó nữa, thời điểm quân lính Anh kéo vào Đông Dương để hòng kiểm soát bán đảo này và hất cẳng quân Nhật tại đây, song thực chất là bí mật tìm cách giúp quân Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam.

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc ngày 7.5.1954 được xem là một thảm họa đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Pháp trong nỗ lực tái gây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân nói chung sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc. Sau chiến dịch lừng lẫy này, miền Nam rơi vào tay chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ đó, cộng sản đẩy mạnh chiến tranh du kích để giành quyền kiểm soát miền Nam.

Cái giá của xem thường văn hóa

Quân viễn chinh Mỹ chính thức đổ bộ vào Đà Nẵng năm 1965. Những toán lính nghĩa vụ này sau đó phục vụ tại một trong những căn cứ rộng lớn mọc lên như nấm trên khắp Việt Nam trong những năm cuối thập niên 60. Bia lạnh, điều hòa không khí, thịt bò cho bữa tối và cả truyền hình trực tiếp từ Mỹ luôn luôn sẵn có tại các căn cứ quân sự ở Biên Hòa và vịnh Cam Ranh. PX - một trung tâm mua sắm cho quân đội Mỹ ở Chợ Lớn, Sài Gòn, sang trọng không thua kém chuỗi cửa hàng bách hóa Bloomingdale ở New York.

Ngay cả khi chỉ là một người trẻ tuổi, tôi vẫn có thể hiểu được lý do vì sao người Mỹ lại trở thành những kẻ bại trận. Họ đã xem thường nền văn hóa và sự đói nghèo của những người đã dám chiến đấu tự vệ đến cùng. Họ đang nỗ lực theo đuổi cuộc chiến này theo quan điểm của riêng họ, cam kết tận dụng triệt để sức mạnh của công nghệ tối tân và khí tài quân sự hạng nặng ngay tại một quốc gia- nơi những người nông dân cần mẫn trên cánh đồng, và chủ nghĩa Mác đứng vững trong hệ thống tư tưởng.

Tôi vẫn còn nhớ một bình minh trên đường băng Pleiku ở Tây Nguyên, chứng kiến thành viên phi hành đoàn nhanh chóng bước ra khỏi những chiếc trực thăng để bắt tay thực hiện nhiệm vụ trong ngày.

Họ bắt đầu khởi động các động cơ các tàu đổ bộ, rồi hàng loạt tàu chiến Huey và trực thăng chiến đấu Cobra đang tăng tốc về phía trước. Với tất cả lợi thế mà quân đội Mỹ có được, tôi đã có lúc tin rằng làm sao họ có thể bại trận tại chiến trường Việt Nam.

Tổng thống Johnson, nhà ngoại giao người Mỹ gốc Đức Henry Alfred Kissinger, và rất nhiều tướng lĩnh Mỹ đều có chung nhận định như trên. Nhưng rốt cuộc, tất cả bọn họ đều đã sai khi quá chủ quan vào sức mạnh của Mỹ.

Vào tháng 3.1968, các đơn vị lính Lục quân Mỹ đã thảm sát hàng trăm người dân vô tội không có vũ khí, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em tại tỉnh Quảng Ngãi. Sự kiện thảm khốc này đã gây rúng động dư luận Mỹ và cả thế giới, hâm nóng phong trào phản chiến và là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự triệt thoái của quân đội Mỹ ở Việt Nam sau này.

Những tuần cuối cùng của trận chiến

Quân đội Mỹ lại tiếp tục lún sâu vào cuộc chiến phi nghĩa của họ khi sử dụng “pháo đài bay” B52 để phá hoại miền Bắc. Họ đã phun các hóa chất rụng lá như chất độc da cam xuống một số vùng ở miền Nam Việt Nam để quân đội Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn phát hiện quân giải phóng di chuyển trong rừng. Trong khi đó, các phát ngôn viên Mỹ ở Washington và ở Sài Gòn đều tìm cách dối lừa người dân Mỹ và cả dư luận thế giới, cố tình lấp liếm về những gì họ đã làm tại Việt Nam.

Quan điểm

Nhà báo Max Hastings
  Là một phóng viên, tôi đã chứng kiến những tuần cuối cùng của cuộc chiến. Vào ngày cuối cùng, tôi là một trong số hàng trăm người thoát bằng cách rời khỏi Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn rút về Mỹ trên một hạm đội lớn ở ngoài khơi.  
Một ngày của năm 1971, ngồi trong xe tải của Mỹ trên đường tiến đến chiến trường ở Tây Nguyên, tôi thấy một dãy dài các xe bọc thép rỉ rét, nằm chỏng chơ tại một khe sâu bên đường. Tôi nhận ra đó là những tàn tích còn sót lại của Binh đoàn cơ động 100 (Groupe Mobile 100) sau khi bị tiêu diệt hoàn toàn trong trận chiến lịch sử năm 1954. Những gì đã từng xảy ra với Pháp có thể xảy ra với những người khác nếu cố tình lặp trò điên rồ tại đất nước này.

 

Ngày 23.1.1973, ông Lê Đức Thọ, đại diện đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và ông Henry Kissinger, phái viên của Tổng thống Mỹ, cùng ký tắt vào Hiệp định Paris tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Sự kiện này đã tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước năm 1975. Trong khi đó, chính quyền ngụy ở Sài Gòn dần mất chỗ dựa về quân sự, bị suy yếu và càng lún sâu vào khủng hoảng chính trị.

Cuối cùng, xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975, ngày này đã trở thành huyền thoại và đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam.

Hàng nghìn quân lính Việt Nam cộng hòa bại trận tháo chạy và nhiều người dân tị nạn đã di tản khỏi Sài Gòn. Hàng loạt phi cơ, máy bay trực thăng có giá hàng trăm triệu đô la bị xô đẩy xuống biển, bởi vì không còn chỗ trên sàn đáp. Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam trở thành một nước chủ nghĩa xã hội thống nhất.

Tất cả chúng tôi, những người Mỹ và châu Âu dường như kiệt quệ về tinh thần bởi nỗi khiếp đảm đã chứng kiến trong cuộc chiến này. Những tổn thương của chúng tôi không có nghĩa lý gì đối với nỗi thống khổ tột cùng mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng.

Xét về bình diện quân sự, Mỹ đã bị đánh bại hoàn toàn tại chiến trường Việt Nam. Nỗi day dứt vẫn còn xâm chiếm tâm trí những cựu chiến binh, thậm chí cả nhân dân Mỹ - những người đã đi qua kỷ nguyên Chiến tranh Việt Nam.