Thưa Giáo sư, trong cuộc sống đời thường từ xưa, người dân nông thôn vốn được xem là “lành”, thế nhưng hiện nay, tình trạng nói tục, chửi bậy đã lên tới mức báo động. Giới trẻ nông thôn còn xem việc nói tục là mốt, là sành điệu. Vậy ông đánh giá thế nào về nhận định này, xét từ góc độ văn hóa?
- Truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta trọng lễ nghĩa, việc ứng xử có văn hóa đã có từ bao đời, đó là lối ứng xử của người trẻ với người già, cấp trên với cấp dưới. Đặc biệt ở nông thôn có quy ước rất rõ về ứng xử, “không được vô phép”, người trẻ gặp người lớn tuổi phải cúi đầu chào và người lớn đáp lại cũng như vậy. Ngày nay, điều kiện kinh tế đất nước phát triển cao hơn thì dường như truyền thống văn hóa đang bị xói mòn. Nguyên nhân trước tiên là việc giáo dục văn hóa bị đứt đoạn, bị xem thường. Chúng ta quên mất một vế lớn của văn hóa dân tộc là văn hóa ứng xử, khi văn hóa ứng xử bị buông trôi, không giáo dục thì dễ sẽ trở nên hư hỏng, mất gốc, mất tính dân tộc.
Có ý kiến cho rằng văn hóa Hà Nội bị thay đổi do ảnh hưởng từ văn hóa nông thôn trong quá trình đô thị hóa và di dân nhập cư nên sinh ra nạn người dân nói tục. GS có đồng tình với nhận định này?
-Theo tôi nói vậy chỉ đúng một phần. Không phải tất cả những người du nhập vào Hà Nội đều vô văn hóa, mà họ cũng mang theo những nét văn hóa đặc sắc của từng vùng miền làm cho văn hóa của Hà Nội thêm đa dạng. Điểm mấu chốt là khi con người đã mất văn hóa họ sẽ không quan tâm tới những gì cha ông giáo dục từ xưa.
Thơ Hồ Xuân Hương là thơ tục có văn hóa. Ngày xưa thơ ca dân gian rất chú trọng phê phán thói vô văn hóa hoặc dạy con người biết sống có văn hóa. Ví dụ trong bài dân ca “Ăn một miếng trầu, gặp đây, ăn một miếng trầu” của dân ca Hà Nam, ta gặp, ta chào nhau, ta tỏ tình mà tỏ tình không phải thô thiển như bây giờ. Những câu hát, vần thơ giáo dục con người ta ứng xử với nhau, tỏ tình với nhau một cách kín đáo mà tinh tế. Vì thế người thành phố nói tục đừng có đổ lỗi cho người nông thôn, điều này là nhảm nhí.
Ở nông thôn vốn có truyền thống cố kết cộng đồng, tôn trọng đạo lý, tuy nhiên hiện nay cũng có rất nhiều thay đổi, trẻ em nói tục nhiều hơn, tình làng nghĩa xóm phai nhạt... Phải chăng sự thay đổi này là kết quả của những gì nhiều người vẫn gọi là “mặt trái” của cơ chế thị trường?
Mới đây, UBND TP.Hà Nội đã giao các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý cụ thể, nhằm hạn chế cao nhất những hành vi thiếu văn hóa trong nhà trường và ngoài xã hội, trong đó có nói tục. Theo quan điểm của ông, liệu giải pháp này có đem lại hiệu quả ở nông thôn?
- Quy tắc thì cứ làm nhưng theo tôi không có hiệu quả. Áp dụng về nông thôn thì càng không có hiệu quả, người dân nông thôn không ai chịu bị xử phạt ăn tục, nói bậy cả. Tôi cho rằng hình thức xử lý những người nói bậy là xử lý tình thế, không có cơ bản. Nói bậy giờ như một “bệnh dịch”, phải giải quyết từ gốc, nếu không chữa trị kịp thời bệnh dịch đó sẽ lây lan, như một thứ di căn rất khó chữa. Còn văn hóa là còn đất nước, mất văn hóa là mất đất nước.
Cá nhân ông thấy nên có những giải pháp gì để giảm bớt tình trạng nói tục ở thanh thiếu niên và cả người lớn?
- Là người làm văn hóa, tôi nghĩ văn bản pháp luật chỉ là một biện pháp nhỏ, áp dụng phạt hành chính thì không hiệu quả. Từng đứa trẻ sinh phải được cha mẹ, nhà trường, xã hội dạy lễ nghĩa, “dạy ăn, dạy nói, dạy gói, dạy mở”.
Trong nhà trường, coi giáo dục đạo đức là một môn học, thường xuyên giáo dục bằng nhiều hình thức. Trong gia đình từng thành viên phải biết học hỏi những nếp sống hay, phê bình nhắc nhở những hành vi chưa phù hợp. Ra xã hội, phải nhân rộng những hành vi ứng xử có văn hóa giữa người với người, cũng như tuyên truyền thông qua văn học, nghệ thuật, báo chí… Tất cả cùng nói lên tiếng nói chung, phải làm thường xuyên và liên tục.
Xin cảm ơn ông!