Dân Việt

Trả giá

16/06/2011 16:16 GMT+7
(Dân Việt) - Năm 2009, khi đòi “quật” bể than Sông Hồng, Tập đoàn Than và Khoáng sản VN (TKV) đã tung ra dự báo VN sẽ thiếu than trầm trọng nên sẽ phải nhập than, và nhập ngay từ năm 2013, và nhập đến cả trăm triệu tấn trong tương lai không quá 10 năm.

Khi đó dư luận sốc nặng. Một quốc gia mà số lượng mỏ than được thể hiện bằng những chấm vuông màu đen chi chít trên bản đồ khoáng sản, trữ lượng than lên tới 220 tỷ tấn cuối cùng phải đi nhập than. Sớm hơn cả dự báo, ngày 14.6, TKV hân hoan thông báo những tấn than đầu tiên cập cảng!

Nhưng 9,5 ngàn tấn than nhập khẩu ấy phải nói là, một “thành tích” đau xót của TKV khi dưới sự điều hành của họ, VN rất nhanh chóng từ một nước xuất khẩu trở thành một nước nhập khẩu than. Đã có những năm, việc xúc bán của TKV còn mang lại cho họ thành tích lọt vào top những ngành xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD.

Thành tích của TKV ngày hôm nay rõ ràng là sự trả giá cho lối khai thác tài nguyên vô tội vạ của hôm qua. Sự vô tội vạ kéo dài suốt nhiều chục năm với công nghệ khai thác kiểu cuốc xẻng, theo lối xúc đất bán lấy tiền. Nhiều chục năm họ xuất than với giá rẻ mạt, với hoạch định kiểu bóc ngắn cắn dài...

Mỗi năm, TKV vẫn xuất khẩu trên dưới 20 triệu tấn than, có năm xuất tới gần 32,5 triệu tấn. Và trước nguy cơ thiếu hụt nguồn than được cảnh báo từ trước, họ vẫn không thể ngừng xuất khẩu. Chỉ với một lý do duy nhất là để có tiền, có doanh số, có lợi nhuận với danh nghĩa “cân đối tài chính” cho việc bán than dưới giá thành cho nhu cầu trong nước. Nhưng ngay cả khi xuất tới 32,5 triệu tấn than thì giá trị của sự bán thô tài nguyên mang lại là rất rẻ mạt. Chẳng hạn với 1,08 tỷ USD thu được từ việc xuất thô hơn 32 triệu tấn than năm 2007, thì chỉ đủ mua lại 7,5 triệu tấn than chỉ sau đó 1 năm.

Và giờ là đến lượt nhập. Năm 2012 phải nhập 10 triệu tấn, năm 2020 sẽ là 100 triệu tấn “theo kế hoạch”, theo dự báo. Nhưng có lẽ, với việc những vỉa than lộ thiên ở Quảng Ninh đã cạn kiệt, với việc những tấn than ngoại đã được nhập sớm 2 năm so với dự kiến và tất nhiên là với cả công nghệ nhiệt điện “ăn than như ăn gỏi”, thì có lẽ con số 100 triệu tấn than nhập khẩu cũng sẽ rất sớm “vượt kế hoạch”.

Khi tung ra dư luận những thông tin đe doạ về việc thiếu than lần đầu năm 2009, tức là gần 40 năm sau khi khái niệm an ninh năng lượng được đưa ra sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, TKV hướng tới việc đòi “quật” bể than Sông Hồng chứ không phải để rút kinh nghiệm cho việc quản lý, hoạch định và khai thác của mình. Bởi vậy, dù có trữ lượng dự đoán hơn 200 tỷ tấn, bể than Sông Hồng vẫn là quá ít cho cung cách quản lý và khai thác của TKV chừng nào những lời đe doạ và việc nhập khẩu than chưa được coi là hậu quả nhãn tiền của lối khai thác đào “đất ăn tiền” của một ngành độc quyền mà công việc chính là bán rẻ tài nguyên.

Vẫn phải nhắc lại là nạn than thổ phỉ chưa bao giờ chấm dứt với “kim ngạch” không dưới 10 triệu tấn mỗi năm.

Liệu an ninh năng lượng có nên phụ thuộc vào thành tích của chỉ một ngành, một tập đoàn, một cái đầu?