1. Rau quả
Trong những năm gần đây, xuất khẩu rau quả Việt Nam vào thị trường các nước TPP tăng trưởng nhanh chóng. Trong thời gian qua, thanh long đã được xuất khẩu đi New Zealand và Australia, vải, nhãn và xoài đã được xuất vào thị trường Hoa Kỳ... Mặc dù vậy, kim ngạch xuất của Việt Nam vào TPP (khoảng 200 triệu USD) vẫn chưa đúng với tiềm năng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam).
Xuất khẩu rau quả của VN
Lợi ích từ việc giảm thuế suất nhập khẩu cuả các nước TPP đối rau quả Việt Nam được kỳ vọng là khá lớn. Dư địa thuế quan đối với cả sản phẩm rau quả thô và chế biến của Việt Nam còn nhiều. Nhật Bản, Hoa Kỳ và Mexico là ba thị trường tiềm năng nhất cho sản phẩm rau quả xuất khẩu của Việt Nam.
Trong công bố cam kết chi tiết TPP của Nhật Bản, thuế quan nhập khẩu với hoa quả và nước trái cây về 0% ngay lập tức. Đáng chú ý là một số mặt hàng mà hiện tại Nhật Bản nhập chủ yếu từ Việt Nam sẽ có lộ trình cắt giảm dần thuế quan. Thứ nhất, khoai tây: Thuế hiện tại đang là 40% trong hạn ngạch và 2796 yên/kg ngoài hạn ngạch. Thuế sẽ giữ nguyên cho phần trong hạn ngạch và thuế ngoài hạn ngạch được giảm 15% sau 6 năm. Trung bình 3 năm gần đây lượng nhập khẩu từ Việt Nam là 200 tấn/năm. Thứ hai, trà: thuế hiện tại là 17%; không quota.
Thuế sẽ được đưa về 0 trong 6 năm. Hiện tại Việt Nam xuất khẩu trung bình sang Nhật 300 tấn/ năm. Thứ ba, nước dứa: thuế ngoài hạn ngạch là 33 yên/kg, thuế ngoài hạn ngạch sẽ giảm 15% trong 6 năm. Xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang Nhật là 40 tấn/ năm. Như vậy, có thể thấy rằng Nhật Bản sẽ là một thị trường tiềm năng cho sản phẩm rau quả của Việt Nam trong khối TPP.
Xuất khẩu của VN vào TPP.
Việt Nam cũng nhập khẩu khoảng 100 triệu USD rau quả từ các nước TPP tập trung chủ yếu từ Hoa Kỳ và Australia. Khi TPP đi vào thực thi, sản phẩm rau quả của hai nước này sẽ có cơ hội lớn thâm nhập vào thị trường Việt Nam do vẫn còn nhiều dư địa để giảm thuế suất nhập khẩu (40%).
Hiện nay phần lớn các sản phẩm rau quả nhập khẩu từ TPP đang cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm Việt Nam trên phân khúc thị trường cao cấp. Trong tương lai, giá các sản phẩm rau quả nhập khẩu giảm xuống do Việt Nam phải hạ thuế suất theo cam kết TPP.
2. Thủy sản
Hiện nay, phần lớn mức thuế suất nhập khẩu của các nước TPP đối với các sản phẩm thủy sản ở dạng nguyên liệu hoặc sơ chế (có mã số thuế HS 03) đã ở mức khá thấp (0-5%), trừ Mexico. Vì vậy, việc giảm thuế từ các cam kết TPP không có nhiều ý nghĩa trong việc thúc đẩy xuất khẩu các nhóm hàng này của Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều dư địa đối với các các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao (mã số thuế HS 16) tại các thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada.
3. Lúa gạo
Trong khối TPP, có bốn quốc gia có dự địa lớn về mặt thuế suất nhập gạo, đó là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Mexico và Malaysia. Hai thị trường Nhật Bản và Hoa Kỳ được đánh giá là rất khó xâm nhập. Việc áp mức thuế suất nhập khẩu gạo lên đến gần 400% cho thấy Nhật Bản luôn coi gạo là sản phẩm có ý nghĩa chính trị hết sức quan trọng và tìm mọi cách để bảo hộ.
Theo công bố mới đây của chính phủ nước này, Nhật Bản mặc dù sẽ tăng lượng nhập khẩu gạo hàng năm từ 87 nghìn tấn lên 850 nghìn tấn, nhưng chỉ cho phép hai quốc gia có thể xuất gạo vào là Hoa Kỳ và Australia. Như vậy, Việt Nam cũng không có nhiều cơ hội tham gia vào thị trường này.
4. Cây công nghiệp
Các sản phẩm xuất khẩu từ cây công nghiệp cũng có thể được hưởng lợi gián tiếp từ cam kết cắt giảm thuế suất của TPP nhưng không cao. Đối với cà phê, hiện nay mức thuế quan nhập khẩu cà phê tại Mexico còn rất cao, đối với cà phê hạt Robusta chưa rang, thuế suất là 20%. Theo cam kết TPP, Mexico đặt lộ trình giảm thuế rất dài, từ 5 đến 13 năm.
Đối với sản phẩm điều, hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu hạt điều thô từ Châu Phí với giá trị 485 triệu USD trên tổng số 589 triệu USD. Trong khối TPP hiện nay, Australia cũng đang xuất khẩu điều thô sang Việt Nam và chịu mức thuế suất nhập khẩu 10%. Với cam kết của TPP, nhiều khả năng mức thuế này sẽ giảm xuống. Khi đó, Việt Nam có thể tăng cường lượng nhập khẩu điều từ Australia để giảm chi phí sản xuất.
Đối với cao su, hiện nay Việt Nam xuất khẩu nhiều cao su thô sang Malaysia chế biến và nước này lại xuất đi Hoa Kỳ. Để hưởng thuế suất ưu đãi từ Hoa Kỳ trong cam kết TPP, Malaysia sẽ phải đảm bảo tỷ lệ nội địa hóa (cao su thô có nguồn gốc từ TPP). Việt Nam là nước duy nhất trong TPP xuất khẩu cao su thô cho Malaysia. Vì cao su là mặt hàng chiến lược của Malaysia và Hoa Kỳ là thị trường quan trọng, nên nhiều khả năng Malaysia sẽ đẩy mạnh thu mua cao su thô của Việt Nam trong thời gian tới.
5. Gỗ và sản phẩm gỗ
Hiện nay, trong các nước TPP, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Hoa Kỳ và Nhật Bản với hai loại sản phẩm chính là đồ gỗ nội thất và đồ gỗ ngoại thất. Mức thuế suất của hai nhóm sản phẩm này tại các thị trường lớn đều đã bằng 0%. Vì vậy, tác động từ việc giảm thuế suất nhập khẩu theo cam kết của TPP không có ý nghĩa nhiều với các sản phẩm gỗ này.
Khi vào TPP, các doanh nghiệp Việt Nam để được hưởng các ưu đãi về thuế suất của khối TPP, các sản phẩm của Việt Nam phải đảm bảo hai tiêu chí chính. Thứ nhất, 55% lượng gỗ nguyên liệu phải có xuất xứ từ trong khối TPP. Thứ hai, các sản phẩm gỗ phải đảm bảo tính hợp pháp từ đất đai, khai thác gỗ, vận chuyển, chế biến, xuất khẩu, tài chính, an sinh xã hội (lao động). Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường Đông Nam Á (Lào, Myanmar, Malaysia, Cambodia...), Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Định hướng trong thời gian tới, Việt Nam cần chuyển dịch nhập khẩu gỗ từ Úc, New Zealand, hạn chế nhập khẩu từ Lào, Cambodia, Myanmar... để đảm bảo yêu cầu gỗ hợp pháp và nguồn gốc xuất xứ. Đối với thị trường gỗ nguyên liệu Malaysia, tiềm năng mở rộng nhập khẩu là không lớn do nguồn nguyên liệu gỗ của nước này ngày càng cạn kiệt, chính phủ Malaysia đã và đang có những biện pháp nhằm hạn chế xuất khẩu gỗ nguyên liệu để đảm bảo đầu vào cho sản xuất trong nước.Nguô 5: Kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu của Việt Nam năm 2014 (Đơn vị: Triệu USD)
6. Chăn nuôi
Nhìn chung, ngành chăn nuôi sẽ gặp nhiều khó khăn khi Việt Nam tham gia vào TPP. Trong thời gian tới, nếu rào cản thuế quan được dỡ bỏ, thì các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh quyết liệt hơn của các sản phẩm thịt bò và sữa từ Australia và New Zealand, lợn gà từ Hoa Kỳ và Canada trên thị trường trong nước.
Theo điều tra của Viện IPSARD, hiện nay các sản phẩm lợn gà được nhập khẩu chủ yếu là sản phẩm đông lạnh và các phụ phẩm phân phối qua hệ thông siêu thị hoặc các bếp ăn tập thể hoặc cửa hàng ăn nhanh. Đối tượng khách hàng chủ yếu là thanh niên trẻ tuổi và người có thu nhập thấp. Các sản phẩm này đang bổ trợ và chưa có nhiều cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm thịt tươi nóng của người sản xuất Việt Nam.
Người Việt Nam có thói quen tiêu dùng sản phẩm tươi nóng và để thay đổi thói quen này sẽ mất khoảng thời gian vài ba năm. Lộ trình giảm thuế cũng sẽ kéo dài 5-10 năm. Đây là khoảng thời gian quan trọng để ngành chăn nuôi có thể tái cơ cấu và cải thiện năng lực cạnh tranh.
Sáng nay (4.2), Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết tại Auckland (New Zealand), kết thúc quá trình đàm phán kéo dài 5 năm qua. |