Không khí Tết ngày xưa rộn ràng tiếng cười đùa khi cùng nhau gói bánh chưng dịp Tết.
Tết Nguyên đán (1.1 âm lịch) là ta đang mượn của Trung Quốc?
Ngược dòng thời gian, theo các tài liệu lịch sử của 2 nước, thì:
Ở Việt Nam vào đời Hùng Vương thứ 6 tổ chức cuộc thi cho các con dâng lễ vật cúng trời đất - đây có thể là ngày tết của dân ta thời vua Hùng, qua đó chọn ra hoàng tử nào có lễ vật ưng ý vua nhất để truyền ngôi. Do đó dân gian lưu truyền sự tích Hoàng tử Lang Liêu đã dâng vua mâm lễ bánh chưng bánh dày, tượng trưng cho trời đất, ý nghĩa làm hài lòng vua Hùng và được truyền ngôi. Từ đó dân ta bắt đầu có mâm cúng bánh chưng bánh dày để lễ trời đất và thờ cúng tổ tiên.
Theo tấm bia Hùng miếu điểu lệ do Hội đồng Kỷ niệm tỉnh Phú Thọ lập năm Khải Định 8 (1923) và trên tấm bia Hùng Vương từ khảo do tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại 15 (1940), đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, thì dân địa phương có tục lệ lấy ngày 11 tháng 3 âm lịch hàng năm kết hợp với thờ Thổ kỳ làm lễ tổ tiên tại Hùng Vương Tổ miếu, còn dân cả nước thì thường đến lễ vào mùa thu. Mãi đến ngày 25 tháng 7 năm 1917 năm vua Khải Định thứ nhất triều Nguyễn, chính thức định lệ ngày quốc lễ - Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Còn ở Trung Quốc, thời Tam Hoàng Ngũ Đế, vào đời vua Thuấn ngày đầu năm âm lịch (1.1) vua dẫn dắt các các thuộc hạ đi cúng trời đất, từ đó ngày này tổ chức làm ngày Tết Nguyên đán (mở đầu một năm mới) ở Trung Quốc. Sau đó đời nhà Hạ lấy ngày tết vào tháng giêng , nhưng đến đời nhà Thương lấy Tết vào tháng Chạp, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước đã lấy Tết vào tháng 10. Sang đời Hán Vũ Đế ra lệnh lấy 1.1 là ngày Tết Nguyên đán ổn định đến ngày nay.
Như vậy là từ những cơ sở trên đã khẳng định được là:
Ở thời Hùng Vương thứ 6 dân ta đã có tập tục lễ trời đất cúng tổ tiên - có thể là ngày tết, bằng lễ vật bánh chưng bánh dày, còn truyền lại đến ngày tết nay. Nhưng ở thời Hùng Vương thì dân ta lễ tết vào trong khoảng 11 tháng 3 âm lịch. Đến đời vua Thục Phán An Dương Vương kế tục các vua Hùng thì để mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà, một bộ tướng của vua Tần Thủy Hoàng bên Trung Quốc. Sau khi nhà Tần sụp đổ, nhà Hán lên thay đã chọn ngày 1.1 âm lịch làm ngày tết Nguyên đán của Trung Quốc. Thì lúc này Việt Nam vẫn đang trong thời kì 1000 năm Bắc thuộc, các đời quan Trung Quốc sang cai trị nước ta đã ấn định dân ta dời ngày lễ Tết đầu tháng 3 âm lịch sang ngày 1.1 âm lịch của Trung Quốc làm ngày Tết với Trung Quốc, mục đích tất nhiên là nhằm đồng hóa văn hóa Việt Nam vào văn hóa Trung Quốc, cùng với Tết 1.1 âm lịch còn có chữ Hán của Trung Quốc ấn định cho dân ta. Công cuộc đồng hóa văn hóa của các triều đại Trung Quốc đô hộ Việt Nam trong 1000 năm Bắc thuộc này là điều ai cũng biết. Minh chứng nữa cho cơ sở này, là về hình thức tổ chức ngày Tết 1.1, đêm giao thừa và ngày 23 tháng chạp đón ông Táo của Việt Nam, cũng sao y gần giống hệt, đến 99% của Trung Quốc.
Như vậy là Tết ngày 1.1 âm lịch dân ta vẫn tổ chức lâu nay thực chất không phải là cổ truyền của dân tộc Việt Nam như nhiều người Việt Nam hiện nay ngộ nhận, mà chúng ta đang "mượn" ngày Tết cổ truyền của Trung Quốc. Tổ tiên người Việt Nam là vua Hùng không có "cổ truyền" cho dân ta ngày Tết 1.1 âm lịch này, mà chỉ cổ truyền cho dân ta lễ trời đất tổ tiên (có thể là Tết) vào đầu tháng 3 âm lịch. Rất may là về sau người Việt Nam cũng đã sáng tạo ra chữ Nôm và giữ được tiếng nói Việt, thoát khỏi âm mưu đồng hóa văn hóa của các triều đại phương Bắc.
Trong thời gian 1000 năm Bắc thuộc do bị đô hộ nên dân ta bắt buộc phải theo ngày Tết của Trung Quốc. Về sau, giành được độc lập, tuy nhiên dân ta vẫn tổ chức Tết Nguyên đán theo Trung Quốc, do tiếp thu lịch mặt trăng (lịch âm) của Trung Quốc để làm việc hằng ngày, mà quan niệm Tết Nguyên đán của Trung Quốc là xuất phát từ việc dùng lịch âm. Chính vì thế mà dân ta vẫn tiếp thu quan niệm Tết Nguyên đán theo lịch âm của Trung Quốc truyền sang ta và duy trì đến tận ngày nay, còn tổ tiên ta là các vua Hùng do chưa dùng lịch âm của họ nên không có quan niệm tết như họ vậy.
Nhưng hiện nay thì lịch âm đã không còn được dân ta dùng để đi làm việc như thời phong kiến nữa, Làm nông nghiệp ngày nay thì đã có vệ tinh dự báo thời tiết cho nhiều ngày, thậm chí dự báo được cả mùa, cả năm, nên trên thực tế thì người dân trông theo dự báo thời tiết mà làm mùa vụ sớm hay muộn để tránh thời tiết bất lợi, chứ không còn theo đúng lịch âm như thời cổ nữa, vì thời tiết thực tế sai khác nhiều so với dự tính trên lịch âm. Cho nên vai trò lịch âm hiện nay đã bị thay thế bằng lịch dương, và vệ tinh dự báo thời tiết ngày càng hiện đại chính xác hơn nhiều, nên lập luận đón Tết theo lịch âm vì vai trò của nó là không còn đúng nữa. Ngày nay về sau thì lịch âm chỉ còn để xác định các ngày lễ cổ truyền mà thôi.
Cũng vì quan niệm tết là quan niệm riêng của 1 dân tộc, nên có nhiều nước khác đón Tết không phải là ngày đầu tiên của năm mới theo dương lịch hay âm lịch. Đó là: Afghanistan và các nước lân cận trong khu vực đến tận tháng 3 này mới đón năm mới Nowruz truyền thống. Tết của người Do Thái là lễ Rosh Hashanah kéo dài một ngày rưỡi trong tháng Tishri (tháng 9, tháng 10 theo Dương lịch) và để tưởng nhớ Đấng Tạo hóa. Lào đón Tết Bunpimay trong ba ngày, 13, 14 và 15.4 hàng năm. Phần lớn các quốc gia Hồi giáo và Ả Rập coi ngày 15.10 là ngày mở đầu lễ Tết Ead al-Fitr.
Như vậy đã xác định được là tết Nguyên đán ta đang tổ chức là tết "mượn" của Trung Quốc, do có thời gian 1000 năm (tới 10 thế kỷ) bị đô hộ và do ở thời phong kiến trước ta dùng lịch âm theo họ để làm việc hàng ngày. Nhưng ngày nay, chúng ta đã giành được độc lập từ lâu, và vai trò của lịch âm để đi làm việc cũng đã hết từ lâu, vậy chúng ta không nên "mượn" Tết nữa mà nên trở về cội nguồn xây dựng một cái tết của riêng dân tộc ta, ngày càng "chuẩn" theo đúng nghĩa là cái Tết bản sắc của một dân tộc có độc lập chủ quyền, có quốc gia riêng, lãnh thổ riêng, có nền văn hiến riêng, chứ không phải là một dân tộc phải phụ thuộc vào nước ngoài đến mức phụ thuộc cả vào...ngày Tết cổ truyền như vậy.
Giỗ Tổ Hùng Vương là lễ hội tiêu biểu
Nghiên cứu trong các lễ hội sau Tết thì thấy có lễ hội lớn nhất là lễ tổ Hùng Vương vào mùng 10.3 âm lịch lại là vào thời điểm cuối mùa lễ hội. Đây là lễ hội hướng về cội nguồn tiêu biểu nhất của dân tộc Việt Nam, có các nét văn hóa sơ khai chính gốc người Việt của thời Hùng Vương là thời lập quốc, như bánh chưng bánh dày, trống đồng, họa tiết chim lạc hồng, y phục của nước Văn Lang riêng biệt chưa bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Lễ hội diễn ra vào thời tiết nắng ấm, thực phẩm không để được quá lâu, nên người dân không phải tích trữ nhiều hàng Tết, góp phần bình ổn giá cả. Lại không phải để đất canh tác cả năm chỉ để trồng hoa đào, hoa mai ngắm có 3 ngày Tết, rất lãng phí "tấc đất tấc vàng". Ngày Tết 1.1 âm lịch lâu nay chúng ta vẫn làm lễ thờ cúng tổ tiên giống như ngày lễ tổ 10.3 vậy, ngày lễ tổ cũng không phải là ngày giỗ vị vua Hùng nào. Cho nên, trong khoảng thời gian đầu tháng 3 lễ tổ ấy chọn lấy ngày Tết cổ truyền là hợp lý, vì nhớ đến buổi đầu dựng nước, nền móng độc lập, cội nguồn con Lạc cháu Hồng của dân ta.
Xem xét mọi mặt, về tính dân tộc, về văn hóa, về thời tiết, về thời điểm,... thì tất cả đều hội tụ đủ các yếu tố để ngày giỗ tổ Hùng Vương làm ngày tết đúng nghĩa cổ truyền mang đậm bản sắc của dân tộc ta, lại khắc phục được những nhược điểm của tết âm lịch hiện nay, thuận lợi cho nhịp độ lao động của cả nước.
Vậy liệu có cần phải thay đổi như vậy hay không? Những luận điểm dưới đây sẽ làm sáng tỏ như sau:
Văn hóa dân tộc là sức đề kháng ngoại xâm của dân tộc ấy
Điều này được minh chứng rất rõ ở dân tộc ta. Qua hàng nghìn năm bị các triều đại phương Bắc đô hộ, nhưng nhờ giữ được tiếng nói Việt, sáng tạo chữ Nôm mà thoát khỏi phải dùng chữ Hán, và nhiều thứ tiếp thu cải biên khác, mà dân tộc ta cuối cùng đã thoát khỏi cái ách 1000 năm Bắc thuộc. Chính nhờ cố giữ được nền văn hóa còn có sự khác biệt, mà dân ta đã không muốn sát nhập vào các triều đại phương Bắc, vùng lên quyết giành độc lập, lập chính quyền riêng của dân ta, dù phải hi sinh biết bao núi xương sông máu.
Khi tiếp xúc với một nền văn hóa mạnh, người ta thường có xu hướng bị nền văn hóa đó thu hút. Đó là một quy luật khó tránh khỏi.
Vì sao người ta muốn bảo vệ Tổ quốc?
Để bảo vệ được Tổ quốc, thì người ta phải chấp nhận hi sinh xương máu, tính mạng của mình để "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", chứ không phải chỉ là tham gia theo phong trào mà mong bảo vệ được Tổ quốc. Cho nên để bảo vệ được Tổ quốc, thì mỗi người phải có động lực rất lớn, lớn đến nỗi sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình vì Tổ quốc.
Một dân tộc bị mất nước, thì bị kẻ xâm lược coi là bị chinh phục. Và tất nhiên, kẻ xâm lược luôn tự hào về chiến tích ấy, coi dân tộc bị chinh phục là tầng lớp thấp kém hơn, trước kia thời phong kiến thì bị coi là chư hầu, là man di mọi rợ, ngày nay thì bị coi là công dân hạng 2 khi bị chinh phục. Và thực ra, như vậy là kẻ chiến thắng cũng có lý lẽ của mình.
Con người ta, khi bị xúc phạm thân thể, hay bị xúc phạm danh dự nhân phẩm, thì người ta phẫn uất, muốn chống lại. Nhưng người ta có thấy phẫn uất, để chống lại kẻ đã xúc phạm mình hay không, thì còn phải phụ thuộc vào người ta có lòng tự tôn, tự coi mình bình đẳng với kẻ đang xúc phạm mình hay không.
Đối với dân tộc Việt Nam ta, thì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên ngôn: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Điều này cũng chính nghĩa là: dân tộc Việt Nam ta tự coi danh dự mình là bình đẳng với các dân tộc khác, cho nên coi độc lập, tự do là quý nhất, thà chết chứ không chịu khuất phục. Và thực ra, từ ngàn đời nay đã thế, như tuyên ngôn của của bài thơ Thần bên sông Như Nguyệt thuở trước: "Sông núi nước Nam vua Nam ở", khẳng định lòng tự tôn của dân tộc ta.
Vậy để 1 dân tộc có lòng tự tôn mà muốn bảo vệ Tổ quốc, thì phải bắt đầu từ đâu?
Như đã nêu ở trên, quan điểm "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn tuyệt đối. Chính vì có quan điểm này mà dân tộc ra mới có lòng tự tôn của mình mà muốn giữ nước.
Như vậy là để có lòng tự tôn ngang hàng với dân tộc khác, thì dân tộc ta phải có độc lập tự do về 1 nền văn hóa truyền thống riêng, không phải là phụ thuộc nền văn hóa nước khác. Dân tộc ta tự tin về trí tuệ của mình so với nước khác, qua những sản phẩm trí tuệ của dân tộc, trong đó, sản phẩm trí tuệ là 1 nền văn hóa bản sắc dân tộc riêng với những cấu trúc đầy đủ, sẽ giúp dân tộc ta ngẩng cao đầu khi đối diện với nước khác, không bị nước khác coi thường, bị hạ thấp vì phụ thuộc, chạy theo nền văn hóa của họ.
Chúng ta vẫn học hỏi những tinh hoa của văn hóa các nước, nhưng tuyệt đối không nên rập khuôn máy móc, sao y của họ, đặc biệt là với ý đồ đồng hóa văn hóa để xâm nhập lãnh thổ. Một điều ai cũng dễ nhận thấy trong cuộc sống là người phụ thuộc người khác thì luôn bị coi thường, mà đã bị coi thường thì luôn bị áp bức, nên để bảo vệ được đất nước thì chúng ta cần hết sức chú ý điều này.
Và điều cốt yếu nhất, là "Không có gì quý hơn độc lập tự do", như lời dạy sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nếu như cái gì chúng ta độc lập tự do được, như trong việc xây dựng 1 nền văn hóa riêng, thì mới là thượng sách. Chúng ta không nên phụ thuộc văn hóa đến mức, phụ thuộc cả... ngày tết cổ truyền như vậy. Hãy quay về với cội nguồn tổ tiên Lạc Hồng, các vua Hùng có công dựng nước với ngày lễ bánh chưng bánh dày chỉ có ở Việt Nam ta. Ngày dựng nước đó xứng đáng làm ngày tết của dân tộc ta lắm chứ. (*)
(*) Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.