Dân Việt

Bạo lực gia đình: Chấp nhận đòn roi vì sợ... vô gia cư

Diệu Linh 05/05/2017 06:00 GMT+7
Luật pháp có nhiều quy định thừa nhận quyền thừa kế, sở hữu tài sản của phụ nữ, nhưng thực tế nhiều chị em vẫn mang tiếng “ăn nhờ ở đậu” ngay trên chính ngôi nhà mình góp công xây dựng. Chính vì vậy, có chị em chấp nhận bị chồng đánh chửi, bạo hành... chỉ vì nếu ly hôn sẽ trắng tay.

Nghiến răng chịu đựng

Hơn chục năm nay, chị N.T.T (Hưng Yên)  chịu cảnh chồng thường xuyên say xỉn, về nhà là đánh chửi vợ. Chị làm quần quật ngoài ruộng, về nhà lại vất vả chăm hơn chục con lợn, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc hai con, phục vụ bố mẹ chồng, cơm nước cho cả đại gia đình. Nhưng chồng chị thường xuyên đá thúng đụng nia. Lúc anh ta chê canh mặn, lúc lại ghét cơm chỉ có cá kho. Anh ta làm phu hồ trên thị trấn nên có nhiều cơ hội “giao lưu” hơn. Vì thế, đến tối nằm ngủ với vợ, anh ta lại chê chị mồ hôi chua loét không thơm tho như mấy em cắt tóc gội đầu trên phố. Dù miệt thị vợ nhưng sau đó anh ta lại bắt chị phải phục vụ tình dục như “gái bán hoa”. Không làm theo là anh ta la hét, chửi rủa chị.

img

Vẫn còn tỷ lệ lớn phụ nữ không đứng tên trong giấy tờ nhà cửa, đất đai (ảnh minh họa).
Ảnh: Công Xuân.

Chị T thấy ê chề, nhục nhã nhưng không dám phản kháng. “Tôi mệt mỏi lắm rồi nhưng không dám ly hôn vì chồng tôi bảo muốn đi thì ôm quần áo rách mà đi. Tôi chẳng có quyền gì với tài sản ở nhà chồng, mà bố mẹ đẻ cũng không chào đón. Vậy là tôi tiếp tục nghiến răng chịu đựng đòn roi, sỉ nhục của chồng” – chị T chua xót.

Chị T cho biết, vợ chồng chị ở trên đất bố mẹ chồng cho nhưng chưa sang tên sổ đỏ nên trên giấy tờ vẫn là của bố mẹ chồng. Chị đã dùng số tiền mà chị đã tích cóp từ thời con gái để xây nhà trên mảnh đất đó. Tuy nhiên, chẳng có bằng chứng nào là chị đã xây bằng tiền của chị. Nhiều lần chị ngỏ ý nhờ bố mẹ đẻ giúp đỡ để chị bế con về thì bố mẹ chị đều thẳng thừng xua đuổi vì “lấy chồng theo chồng, nhà này không còn đất để cho”. Hai em trai chị cũng tỏ ý ghét bỏ, sợ chị về đòi chia phần. Nếu chị ra đi thì “tứ cố vô thân”, tiền không, nhà không, chắc chắn cũng không thể mang con đi để lang thang với mình.

Trong một nghiên cứu với cỡ mẫu đại diện quốc gia do ISDS thực hiện và công bố năm 2016, chỉ có 20% phụ nữ là người sở hữu duy nhất nhà hoặc đất thổ cư. Nam giới cũng thường sở hữu những tài sản có giá trị nhất, bao gồm cơ sở sản xuất và phương tiện đi lại.

Đây là câu chuyện không hiếm gặp của phụ nữ chịu cảnh bạo lực gia đình. Có chị sau ly hôn không còn chốn dung thân nên phải đi làm ăn xa rồi nhờ người mai mối lấy chồng Trung Quốc, không về quê hương nữa. Lại có chị phải lên thành phố làm giúp việc, ngày lễ, tết cũng không dám về quê thắp hương cho bố mẹ vì không còn nơi để ở...

Nâng cao quyền cho phụ nữ

Theo một báo cáo của Tổ chức Phụ nữ Liên Hợp Quốc (UN Women) tại Việt Nam: Phụ nữ, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, ít có quyền kiểm soát đối với đất đai và tài sản của gia đình. Điều này khiến phụ nữ phụ thuộc kinh tế vào người chồng và gia đình nhà chồng... Sự phụ thuộc đó ngăn cản phụ nữ tìm kiếm hỗ trợ pháp lý bởi họ sợ thành người vô gia cư. Thêm vào đó, một số cặp vợ chồng người dân tộc thiểu số không có giấy đăng ký kết hôn và những người phụ nữ này phải đối mặt với những khó khăn về thủ tục pháp lý, kể cả việc đòi quyền chăm sóc con cái. Hậu quả là, lựa chọn ly hôn để thoát khỏi bạo lực thường bị từ chối và hướng người phụ nữ tới các biện pháp hoà giải, sau đó người phụ nữ có thể lại tiếp tục chịu cảnh bạo lực.

TS Khuất Thu Hồng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) cho biết, cho dù luật pháp khá đầy đủ để bảo vệ quyền thừa kế, tài sản của phụ nữ nhưng nhận thức của nhiều người vẫn còn hạn hẹp. Theo khảo sát của ISDS, tỷ lệ đáng kể người dân cho rằng phụ nữ tái hôn không có quyền thừa kế tài sản từ người chồng đã mất, hoặc phụ nữ không sinh được con thì cũng không có quyền thừa kế. Cũng có nhiều người không biết rằng phụ nữ cũng được đứng tên trong quyền sử dụng đất đai, nhà cửa.

Theo TS Hồng, vì nhận thức hạn hẹp mà nhiều phụ nữ không dám đấu tranh để đòi quyền sở hữu đất đai, tài sản cho mình. Đến khi ly hôn hoặc chồng chết, chị em mới “sực tỉnh” mình không có tên trong bất cứ sở hữu tài sản nào trong gia đình. Tiền mình kiếm được thì đã xây nhà, chi tiêu hết, không có bằng chứng nào để ghi nhận sự đóng góp đó. Nếu gia đình nhà chồng, bố mẹ, anh em tử tế thì chia cho chút tài sản, còn nếu gia đình nào bạc bẽo thì phụ nữ “thân cô thế cô” khó lòng đòi được thừa kế, tài sản sau khi chồng mất hoặc ly hôn. 

Ông Lê Quốc Hùng – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ các chương trình phát triển xã hội (CSDP) cũng cho biết, nhiều phụ nữ ly hôn phải đứng trước các vụ kiện cáo, tranh chấp tài sản. Tuy nhiên, để “đòi được vạ thì má đã sưng”, việc thi hành án quá lâu đẩy phụ nữ ly hôn vào cuộc túng quẫn. Nhiều vụ tranh chấp tài sản sau ly hôn kéo dài 3-4 năm. Trong thời gian đó, chị em không có chỗ ở, không tài sản, ruộng đất để trồng cấy không có, phải sống nhờ, hay sống trong nhà thuê tạm bợ. Thậm chí họ còn bị chồng hoặc gia đình nhà chồng đe dọa, hành hung.