Nơi dừng chân của họ là viện Khoa học và công nghệ công nghiệp tiên tiến Nhật Bản (National Institute of Advanced Industrial Science and Technology, viết tắt là AIST, thành phố khoa học Tsukuba) trong thời hạn một năm.
“Mô hình xưởng cực tiểu là phát minh của viện AIST. Ưu thế của mô hình này là vốn đầu tư ban đầu thấp, đặc biệt không cần phòng sạch… Vì có công suất nhỏ nên xưởng cực tiểu phù hợp với sản xuất số lượng nhỏ, nghiên cứu phát triển hay đào tạo nhân lực. Theo kế hoạch, năm 2020, mô hình xưởng cực tiểu sẽ hoàn chỉnh về công nghệ. Nhưng để mô hình này có giá thành rẻ hơn, phải chờ mười năm sau…” – TS Phan Anh Tuấn.
Theo TS Lê Hoài Quốc, trưởng ban quản lý khu Công nghệ cao TP.HCM, sau khi ký kết biên bản ghi nhớ với nhóm phát triển công nghệ MinimalFab của Nhật Bản, lãnh đạo khu đã cử TS Phan Anh Tuấn và KS Vũ Mạnh Giáp sang Nhật Bản học một năm về công nghệ này, để tính chuyện tương lai về việc sử dụng mô hình xưởng cực tiểu cho sản xuất vi mạch. “Đây là hai nghiên cứu viên đầu tiên của khu được cử đi học về công nghệ sản xuất chip trên nền tảng công nghệ mới – mô hình xưởng cực tiểu. Bên cạnh việc nắm bắt thêm những kiến thức về công nghệ chế tạo ICs, MEMS, họ còn học cách thức vận hành, xử lý và hiệu chỉnh khi máy móc xảy ra sự cố kỹ thuật”, TS Quốc nói thêm.
Một năm ở xứ Phù Tang, ông đã học và làm được những gì, thưa ông?
- Theo chương trình của nhóm nghiên cứu mô hình xưởng cực tiểu tại AIST, tôi phải dành chín tháng (từ tháng 8.2016 đến giữa tháng 5.2017) để học về công nghệ lõi, vận hành thiết bị, bảo trì… thiết bị công nghệ xưởng cực tiểu. Ngoài ra, tôi cùng với Giáp và các thành viên trong nhóm tham gia chế tạo một số loại linh kiện bán dẫn cơ bản trên hệ thiết bị xưởng cực tiểu, học hỏi những giá trị cốt lõi trong giai đoạn phát triển các thiết bị công nghệ của mô hình xưởng cực tiểu. Cũng trong thời gian này, tôi còn có cơ hội được gặp và làm việc với các công ty chế tạo thiết bị xưởng cực tiểu. Trong thời gian ba tháng cuối (tháng 6 – 8.2017), vì đã có nền tảng kiến thức về chế tạo và phát triển linh kiện vi cơ điện tử (MEMS), tôi tự nghiên cứu chế tạo linh kiện cảm biến gia tốc MEMS trên các thiết bị của xưởng cực tiểu. Đây là linh kiện MEMS được chế tạo hoàn thiện đầu tiên trên hệ thiết bị xưởng cực tiểu. Kết quả nghiên cứu này sẽ được báo cáo tại hội nghị lần thứ 78 JSAP Autumn Meeting (tổ chức tại Fukuoka vào tháng 9 năm nay).
Dù đã nhiều năm học tập ở Nhật, nhưng tranh thủ thời gian, tôi ôn và học thêm tiếng Nhật, vì phần lớn các thành viên trong nhóm nghiên cứu không nói tiếng Anh, mặt khác ngôn ngữ trên các thiết bị, tài liệu liên quan hoàn toàn bằng tiếng Nhật.
Cuộc sống của ông ở Nhật trong thời gian đào tạo như thế nào? Được biết, chế độ dành cho những người tu nghiệp nước ngoài có vẻ thoải mái hơn nhiều…
-Vì đây không phải lần đầu tiên, mà chỉ là quay trở lại Nhật (từ 2008 – 2012, Phan Anh Tuấn học và lấy tiến sĩ tại đại học Tohoku, chuyên ngành về MEMS) nên không xa lạ với cuộc sống ở đây. Có điều khác của lần quay lại này là thời gian làm việc khác hẳn so với thời gian đi học trước đây. Mỗi ngày làm việc đều đặn khoảng từ 11 – 12 tiếng.
Làm việc nhiều nhưng đời sống của tôi và Giáp rất khó khăn. Dù cử người đi học công nghệ tiên tiến về ngành công nghiệp bán dẫn nhưng về tài chính, TP.HCM tính theo quy chế học bổng của đề án 911. Mỗi tháng, tôi được nhận 1.200 USD (khoảng 130.000 yen). Trong khi đó, chắc anh cũng biết, mức sống ở Nhật rất cao, lại phải đóng rất nhiều khoản chi phí khác nên mức lương trên chỉ đủ cầm cự, cảm giác không an tâm. Đó là chưa kể, muốn về phép thăm gia đình, phải tự bỏ tiền mua vé máy bay. Trước khi đi, tôi đã hỏi về các khoản phụ cấp này, nhưng quy định nhà nước là vậy nên phải chấp nhận.
Như lời của lãnh đạo khu Công nghệ cao, ông được cử đi học để sau này sử dụng xưởng cực tiểu để sản xuất chip. Một nhiệm vụ quan trọng của mô hình khởi nghiệp bằng vi mạch. Ông nghĩ gì về trọng trách này? Ông có niềm tin sau này sẽ được làm những gì mình đã được học, hay là học chỉ để biết khi mà công nghiệp vi mạch Việt Nam mới ở “lớp mầm”?
Được lựa chọn gửi đi học công nghệ mới là một điều vinh dự. Vì lẽ đó, tôi cảm thấy có trách nhiệm phải thu nhận kiến thức nhiều nhất thông qua làm việc trực tiếp với nhóm nghiên cứu, với các công ty chế tạo thiết bị; học phong cách làm việc, quản lý và cách ứng xử của người Nhật không chỉ trong môi trường viện nghiên cứu, mà còn ở các công ty công nghệ lớn...
Tôi có tâm nguyện, học thật nhiều để khi về Việt Nam vẫn giữ được tác phong làm việc hiện đại của người Nhật, cách quản lý hiệu quả, biết cách đào tạo thế hệ kế cận để cùng làm việc, biết hết mình vì công việc mà mục tiêu là sáng tạo những sản phẩm mới, những nghiên cứu có ý nghĩa… Đối với những người đã được đào tạo bài bản trước đây, giờ được đi đào tạo thêm đúng chuyên môn nữa thì niềm tin về tương lai cho ngành công nghiệp vi mạch càng lớn hơn. Có đi ra ngoài mới thấy mình còn thiếu, còn yếu nhiều chỗ.
Trong tương lai, khi TP.HCM hoặc khu Công nghệ cao TP.HCM đầu tư hệ thiết bị xưởng cực tiểu, chúng tôi phải là người hiểu rõ về mô hình này để sử dụng và tư vấn có hiệu quả cao nhất. Trưởng nhóm nghiên cứu mô hình xưởng cực tiểu là TS Hara đã đánh giá cao về khả năng tiếp thu, tiếp cận công nghệ của nhóm chuyên viên người Việt được đào tạo tại đây.
Dường như ông đã xác định “khởi nghiệp” sản xuất chip bằng xưởng cực tiểu. Tất nhiên ông không khởi nghiệp cá nhân mà cùng với cộng đồng…
Dẫu rằng khởi nghiệp cộng đồng, nhưng nếu nghĩ rằng mới chỉ học công nghệ rồi về khởi nghiệp mô hình vi mạch thì e rằng… tham vọng này cao quá. |
- Dẫu rằng khởi nghiệp cộng đồng, nhưng nếu nghĩ rằng mới chỉ học công nghệ rồi về khởi nghiệp mô hình vi mạch thì e rằng… tham vọng này cao quá.
Khởi nghiệp là một cuộc chơi, nhưng môi trường khởi nghiệp phải thuận lợi, có nguồn tài chính, bản thân phải biết hy sinh, cống hiện và sáng tạo… Qua thực tế, ở môi trường khởi nghiệp, có đến 80 – 90% doanh nghiệp đã từ bỏ cuộc chơi! Riêng về lĩnh vực bán dẫn càng khó khăn bội phần, vì tốc độ phát triển công nghệ trên thế giới quá nhanh, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các “ông trùm công nghệ” đã làm hàng loạt các công ty nhỏ đã và đang chết. Với ngành bán dẫn, phải biết nhìn và nhạy với thị trường, nắm bắt được xu thế, tiếp cận công nghệ mới, rồi cách quản lý, năng lực tài chính... Không đơn giản chút nào nếu không muốn nói là rất khó.
Tuy nhiên, cách thức tiếp cận công nghệ của mô hình xưởng cực tiểu theo thị trường ngách với yêu cầu của khách hàng chỉ vài ngàn chip/tháng, hoặc sản xuất thử những loại linh kiện mới với chi phí thấp và thời gian ngắn hơn so với những nhà máy sản xuất bán dẫn lớn (Megafab). Đây là hướng tiếp cận mà tôi cho là phù hợp với nội tình công nghiệp vi mạch Việt Nam hiện nay.
Mô hình xưởng cực tiểu là phát minh của viện AIST. Ưu thế của mô hình này là vốn đầu tư ban đầu thấp, đặc biệt không cần phòng sạch… Vì có công suất nhỏ nên xưởng cực tiểu phù hợp với sản xuất số lượng nhỏ, nghiên cứu phát triển hay đào tạo nhân lực. Theo kế hoạch, năm 2020, mô hình xưởng cực tiểu sẽ hoàn chỉnh về công nghệ. Nhưng để mô hình này có giá thành rẻ hơn, phải chờ mười năm sau… |