Đại tướng Phạm Văn Trà (SN 1935, quê Bắc Ninh), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. (Ảnh báo QĐND)
Đại tướng Phạm Văn Trà cho biết: "Sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ, nước bạn có mời chúng tôi sang thăm. Lúc đầu Bộ Chính trị thống nhất để Thủ tướng Chính phủ đi thăm trước, còn Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sang thăm sau. Tuy nhiên do nước bạn mời Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trước nên Bộ Chính trị quyết định để tôi đi, năm đó là 2003.
Trong chuyến thăm này, tôi có đối thoại với các cựu chiến binh Mỹ, sau đó họ lại mời vào Viện nghiên cứu chiến lược để đối thoại. Khi tôi đến đây có khoảng 70 người, gồm đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ, các tướng lĩnh và các cựu chiến binh. Tại buổi đối thoại này phía bạn đưa ra 17 câu hỏi, trong đó có 5 câu hỏi thuộc dạng hóc búa.
Trước khi đến đối thoại, tôi cũng chuẩn bị một số nội dung nhưng câu hỏi của phía bạn lại nằm ngoài sự chuẩn bị. Câu thứ nhất họ hỏi: Đề nghị ông giải thích tại sao tôi đi đến đâu cũng thấy nói sức mạnh của Việt Nam, ông giải thích sức mạnh của người Việt Nam là gì?
Câu hỏi thứ hai họ đặt vấn đề: Các ông hay nói quan tâm đến người dân nhưng kỳ thực không có quan tâm. Họ dẫn chứng đi từ Mục Nam Quan, Lạng Sơn đến mũi Cà Mau phải một tháng trời mới tới do đường xá quá xấu.
Câu hỏi thứ ba là họ đặt vấn đề Việt Nam vẫn còn giữ tù binh Mỹ.
Trước khi trả lời câu hỏi thứ nhất tôi nghĩ nếu giải thích sức mạnh của người Việt Nam không khéo sẽ bị phía bạn vặn ngay. Tôi chỉ nói rất ngắn, Việt Nam có sức mạnh là nhờ chính quyền với nhân dân đồng tâm và đoàn kết nhau. Tôi trích dẫn chuyện sau Cách mạng Tháng Tám dành tộc lập, dân tộc Việt Nam phải đứng trước vô vàn khó khăn, thử thách. Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã khẳng định chính quyền trước hết phải lo cho nhân dân. Năm 1945 nạn đói rất ghê gớm (hơn 2 triệu người chết đói), Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã tập trung chống đói trước tiên, ngoài việc phá kho thóc phát cho người dân còn phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói. Tiếp sau đó mới đến việc chống nạn mù chữ, thứ ba mới là chống giặc ngoại xâm.
Khi chính quyền gắn bó với dân, luôn luôn lấy người dân để phục vụ, thực sự đem lại lợi ích cho dân thì dân thấy cần phải bảo vệ chính quyền, nhờ đó chúng tôi có sức mạnh. Cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ thắng lợi đều là từ sức mạnh của người dân. Khi nghe tôi trả lời như vậy họ không nói gì.
Trước khi trả lời câu hỏi thứ hai, tôi hỏi lại các ngài đi năm nào, họ nói đi từ năm 1985. Tôi nói luôn, trong thế kỷ XX chúng tôi chỉ có 11 năm hòa bình. Từ đầu thế kỷ đến năm 1945, dân tộc chúng tôi bị thực dân Pháp cai trị. Từ năm 1945 sau khi giành độc lập, dân tộc Việt Nam lại phải bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp đến năm 1954. Sau năm 1954 đến 1975 là thời gian kháng chiến chống Mỹ. Từ năm 1975 -1989 là cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc. Tôi nói rõ như vậy để họ thấy, thực sự trong thế kỷ XX, Việt Nam chỉ có 11 năm hòa bình. Tôi nhấn mạnh nếu được hòa bình như nước Mỹ có lẽ chúng tôi cũng sẽ không kém gì, đất nước tôi như vậy là do chính các ông chứ không phải do chúng tôi.
Trả lời câu hỏi thứ ba, vị tướng dày dạn trận mạc đã thẳng thắn, đối với tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh, đất nước và dân tộc Việt Nam luôn luôn có thiện cảm, luôn luôn xem vấn đề đó là nhân đạo, không coi đó là vấn đề chính trị. Chúng tôi không bao giờ để chuyện tù binh Mỹ còn sống mà không trả lại. Tôi nhấn mạnh, nếu các ông thấy người lính Mỹ còn sống ở đâu trên đất nước Việt Nam, tôi với tư cách Bộ trưởng Quốc phòng sẽ sẵn sàng dùng trực thăng đưa đến tận nơi.
Trong chuyến thăm này, tôi và Đoàn công tác còn đến thăm đài tưởng niệm cố Tổng thống Washington (Tổng thống đầu tiên của Mỹ). Người dân Mỹ thấy chúng tôi mặc quân phục nên đã tập trung quay phim, chụp ảnh rất đông. Có người dân Mỹ hỏi chúng tôi, tại sao các ông đến thắp hương và lạy Tổng thống của chúng tôi như thế. Tôi nói, chúng tôi rất quý trọng cố Tổng thống Washington, Bác Hồ của chúng tôi đã lấy một câu trong tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ) vào Bản tuyên ngôn độc lập của chúng tôi. Đó là câu: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Câu đó phù hợp với dân tộc chúng tôi, chính vì thế chúng tôi quý trọng và đến thắp hương tưởng nhớ. Tôi nói xong nhiều người Mỹ đã vỗ tay.