Dân Việt

Chiến tranh cổ đại: Làm thế nào để phân biệt quân địch quân ta?

Xuân Lộc (theo Toutiao) 03/04/2018 18:33 GMT+7
Trong chiến tranh thời cổ đại, những đội quân đông hàng ngàn hàng vạn người lao vào xung sát bằng gươm đao giáo mác. Trong trận hỗn chiến ấy, làm thế nào để phân biệt được đâu là quân ta, đâu là quân địch?

Khi xem một bộ phim chiến tranh thời cổ đại, mọi người sẽ đều phát hiện ra rằng, diễn viên dồn dập đánh nhau, tạo ra một khung cảnh hỗn loạn, dường như là không phân biệt được đâu là địch, đâu là ta. Điều này không hề phóng đại mà thực tế khi đánh trận hoàn toàn diễn ra như vậy.

Do vậy, các nước thời cổ đại đã nghĩ ra rất nhiều cách để phân biệt địch – ta. Cách đầu tiên cũng là cách đơn giản nhất, đó là trang bị vũ khí và quân phục cho binh sĩ. Ví dụ, trang bị của quân đội nhà Hán và quân Hung Nô là hoàn toàn khác nhau và có thể dễ dàng phân biệt khi hai bên cùng xung trận.

img

Ảnh minh họa.

Nhưng nhìn từ lịch sử các cuộc chiến tranh cổ đại của Trung Quốc có thể thấy, ít nhất một nửa các cuộc chiến tranh là nội chiến trong một nước. Do vậy trang bị của binh sĩ là tương đối đồng nhất, rất khó để phân biệt địch – ta. Vậy thì cần phải có những cách khác để giải quyết được vấn để này.

Một cách quan trọng nhất cũng là cách dễ thấy nhất đó là quân kỳ. Quân kỳ thời cổ đại sẽ được thêu tên của vị tướng quân đứng đầu. Trong các cuộc chiến thời cổ đại của Trung Quốc, nhiều vị tướng dẫn đầu toàn quân tiến công và họ phải để quân sĩ nhìn thấy lá đại kỳ của mình. Chỉ cần quân kỳ không bị rơi xuống, toàn quân sẽ đều tiến công theo cùng một hướng. Ngược lại, nếu quân kỳ bị rơi, khi đó lòng quân đã mất. Cho nên có thể thường thấy trên phim ảnh những cảnh khi lá đại kỳ bị rơi xuống đất, quân sĩ hoang mang tháo chạy, ba quân đại bại trở về.

Song việc này lại dẫn tới một vấn đề lớn khác, đó là binh lính thời cổ đại thường không biết chữ, lúc này chỉ có thể dựa vào một số đặc điểm riêng biệt để mà phân biệt địch - ta. Ví dụ giai đoạn cuối thời Đường, các sứ quân hôm nay kết làm liên minh, ngày mai lại lật mặt trở thành kẻ thù, có thể nói là không tuân theo một quy luật nào cả. Khi đó, xuất hiện những cái tên như Xích Mi, Bạch Cân. Chúng được đặt từ đặc điểm của quân sĩ bị cạo lông mày hoặc trên cánh tay mang một mảnh khăn bông trắng, hay giặc Khăn vàng cuối thời Đông Hán cũng được lấy theo biểu tượng chiếc khăn vàng được đeo trên đầu các binh sĩ tham gia chiến đấu.

Tuy nhiên, lúc lâm trận, để phân biệt địch – ta chìa khóa là nằm ở trận pháp, cách bày binh bố trận. Lúc này tướng lĩnh thường chỉ huy toàn quân bằng lệnh, cách sắp xếp tiền quân sẽ xác định hướng đối đầu với quân địch. Trong thế trận hỗn loạn, bằng mọi giá phải giữ được đội hình, nếu bị phá vỡ, bắt buộc ba quân sẽ phải thoái lui. Đây cũng chính là một trong những lý do giải thích tại sao quân binh thời cổ đại thường bị giảm 30% sau mỗi trận chiến.

Hay như thời Hậu Kim, gần như quân đội không bố trí đội hình. Lúc mất đi khoảng 10% binh sĩ thì coi như đã bị vỡ trận rồi. Chỉ có tới thời nhà Minh, ngay cả khi bị thiệt hại 10% cũng rất hiếm khi bị đánh bại.

img

Ảnh minh họa.

Thích gia binh do Thích Kế Quang đời nhà Minh lãnh đạo, nổi tiếng với quân pháp nghiêm ngặt, ổn định đội hình quân đội chỉ bằng kèn đồng, lính liên lạc, lệnh bài và quân kỳ. Khi xung trận thường bố trận Uyên Ương nên phân biệt địch – ta trở nên dễ dàng. Nhưng dù như vậy cũng không tránh khỏi trong lúc hỗn loạn bị quân mình đánh nhầm.

Vào thời Mãn Thanh, để tăng cường kiểm soát, quân đội thường được tổ chức dưới các hình thức Tương Quân và Hoài quân. Thành viên trong các hình thức này thường là những binh sĩ đồng hương nên tất cả đều quen mặt nhau. Hơn nữa với quan hệ gần gũi thân thuộc như vậy, mọi người càng thêm gắn bó, đoàn kết phục vụ cho mục tiêu chung của quân đội.

Các quốc đảo láng giềng của Trung Quốc cũng tương đối đặc sắc. Ví dụ như quân đội Nhật Bản thời cổ đại, về cơ bản không có binh sĩ thường trực. Khi có chiến tranh, binh sĩ thường là những người nông dân bị bắt ép tham gia quân ngũ. Để những binh sĩ này có thể phân biệt địch – ta , Nhật Bản thường sử dụng một vật thường gọi là “kỳ chỉ vật” , nó là một mảnh cờ nhỏ được các binh sĩ đeo phía sau. Với Nhật Bản, trang bị quân nhu với vũ khí và áo giáp là tương đối hao tốn tiền của, cho nên mảnh cờ nhỏ này được xem như là một cách đơn giản nhất mà ít tốn kém nhất.  có điều trong thực tế chiến đấu, đeo sau lưng một mảnh cờ nhỏ như vậy cũng đem lại nhiều điều bất tiện, cho nên cách đeo cờ sau lưng này chỉ phổ biến trong lịch sử quân sự của Nhật Bản.

Mặc dù như vậy có thể thấy là trong chiến tranh hiện đại, vẫn có nhiều trường hợp đánh nhầm quân mình, cho nên vấn đề phân biệt được địch – ta trong những trận chiến vẫn không phải là một chuyện đơn giản.