Trải qua gần 60 năm hình thành phát triển, hệ thống ngành bảo vệ thực vật (BVTV) đã bảo vệ tốt năng suất cây trồng, ngăn chặn các dịch hại trên cây trồng, góp phần đưa nền nông nghiệp đất nước vốn thiếu lương thực trầm trọng trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp với tổng giá trị 36,2 tỷ USD năm 2017, riêng ngành trồng trọt chiếm tới hơn 20 tỷ USD về kim ngạch xuất khẩu.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, công tác BVTV có nhiều chuyến biến tích cực, đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ tăng năng suất của sản phẩm trồng trọt, đặc biệt là lương thực.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật hoá học vẫn diễn ra ở nhiều địa phương. Ảnh IT
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, tình trạng lạm dụng thuốc BVTV thời gian qua làm tăng giá thành sản phẩm nông sản, tác động tới tác động không nhỏ tới môi trường. Trước thách thức của biến đổi khí hậu, nguy cơ làm gia tăng dịch bệnh đối với cây trồng và những đòi hỏi yêu cầu về chất lượng sản phẩm trồng trọt từ thị trường, đòi hỏi công tác BVTV phải có sự thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu hạn chế, khắc phục tình trạng lạm dụng thuốc BVTV, giảm giá thành sản phẩm, gia tăng chất lượng nông sản đồng thời bảo vệ tốt môi trường.
Để làm điều này, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trong thời gian tới ngành trồng trọt cần hướng tới cần giảm việc sử dụng phân bón hóa học tăng sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học…
Theo Cục Bảo vệ thực vật, tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật hoá học vẫn diễn ra ở nhiều địa phương. Ảnh IT
Về vấn đề này, ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN&PTNT),trong thời gian qua, ngành BVTV cũng tập trung xây dựng các mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật, mô hình sản xuất thân thiện với môi trường để triển khai, nhân rộng đến nông dân, cụ thể như: Chương trình 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm và mô hình “công nghệ sinh thái” được nhiều tỉnh triển khai trên gần 2 triệu ha/năm từ nhiều nguồn kinh phí hỗ trợ khác nhau; Năm 2017 tổ chức được 1.123 lớp tập huấn và triển khai nhiều mô hình với khoảng 87.000 lượt nông dân tham gia.
Chương trình thâm canh lúa cải tiến (SRI) vẫn tiếp tục được nhân rộng với diện tích gần 700 ngàn ha, đã mở gần 700 lớp huấn luyện nông dân và có khoảng 1,5 triệu nông dân ứng dụng.
Chương trình gieo sạ né rầy: hầu hết các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam bộ áp dụng lịch gieo sạ né rầy để chỉ đạo, hướng dẫn nông dân xuống giống trên diện tích gieo cấy khoảng 3,2 triệu ha/3 vụ/năm.
Tuy nhiên trong tình hình mới, có một số yếu tố đã và đang phát sinh ảnh hưởng đến hoạt động của ngành BVTV, trong những năm gần đây biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng rõ nét.
Hạn hán, lũ lụt, mưa trái mùa, mùa đông ấm, rét đậm kéo dài, … tác động mạnh mẽ đến sản xuất trồng trọt, không những làm ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng của cây trồng mà còn làm bùng phát nhiều sinh vật gây hại (SVGH) mới hoặc thay đổi quy luật phát sinh gây hại của SVGH, điển hình như bệnh lùn sọc đen, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá hại lúa, bệnh chổi rồng nhãn, bệnh đốm nâu hại thanh long, rệp sáp bột hồng và bệnh khảm lá sắn, sâu đục thân mía loài mới, bệnh chết nhanh, chết chậm hại hồ tiêu, châu chấu tre lưng vàng gây hại trên tre luồng mới xuất hiện; sâu năn, bệnh bạc lá, bệnh đạo ôn hại lúa, bọ xít muỗi, bệnh thán thư hại điều tái bùng phát hoặc thay đổi quy luật gây hại.Bên cạnh đó, đời sống kinh tế ngày càng cao, nhu cầu được sử dụng thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trong nước cũng tăng theo. Để thỏa mãn nhu cầu này của xã hội, việc tổ chức sản xuất nông nghiệp phải khoa học hơn, trong đó chú trọng việc sử dụng cân đối giữa phân bón vô cơ và hữu cơ, hạn chế sử dụng thuốc BVTV hóa học là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn còn một bộ phận lớn nông dân chỉ quan tâm đến năng suất, lợi nhuận mà không chú ý đến chất lượng nông sản. Vì thế, việc lạm dụng thuốc BVTV hóa học và phân bón vô cơ vẫn đang diễn ra ở nhiều địa phương.
Trước xu thế và nhu cầu về sản xuất sạch, bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường, công tác quản lý vật tư nông nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Cục đang đứng trước rất nhiều thách thức.
Để khắc phục tình trạng trên, ông Hoàng Trung cho rằng, việc liên kết chuỗi sản xuất và tiêu thụ là xu hướng tất yếu trong sản xuất hàng hóa, thị trường hóa sản xuất nông nghiệp để đảm bảo có thể quản lý tốt việc sử dụng các loại thuốc BVTV, phân bón nhằm đảm bảo yêu cầu về ATTP cho sản phẩm nội tiêu cũng như đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Liên kết sản xuất còn là yếu tố quan trọng để tổ chức thu gom bì thuốc BVTV sau sử dụng, không để gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các chuỗi liên kết cũng là tiền đề quan trọng để áp dụng các công nghệ 4.0 vào thực tế sản xuất.
Ngoài ra, theo ông Trung cần tiếp tục rà soát,quản lý chặt chẽ vật tư nông nghiệp ở tất cả các khâu từ khảo nghiệm, đăng ký đến sử dụng. Kiên quyết hoàn thiện đủ các căn cứ khoa học để loại bỏ các loại vật tư nông nghiệp kém chất lượng, gây hại cho sức khỏe con người và môi trường ra khỏi Danh mục.
Về quản lý phân bón, ngành nông nghiệp phấn đấu đến năm 2021, tăng lượng phân bón hữu cơ sản xuất công nghiệp để sử dụng trong nước ít nhất là 3 triệu tấn/năm và xuất khẩu đạt 0,5 triệu tấn/năm; tăng tỷ lệ sản phẩm phân bón hữu cơ so với tổng số sản phẩm phân bón từ 5% hiện nay lên 10%.
Về quản lý thuốc BVTV, rút ngắn 30% số lượng tên thương phẩm trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam; tăng 30% lượng thuốc BVTV sinh học được đăng ký và sử dụng.
Tiếp tục khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao, sản xuất, kinh doanh và ứng dụng biện pháp sinh học, phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học để phòng, chống SVGH.