Để hiểu tầm quan trọng của quyết định ấy, chúng ta cần quay trở lại cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Mồi lửa nhen nhóm
Tháng 5.1962, Tổng Bí thư Liên Xô Nikita Khrushchev và Chủ tịch Cuba Fidel Castro đã đạt được thỏa thuận “bí mật” cho phép Liên Xô bắt đầu xây dựng các trận địa tên lửa ở Cuba, trong đó có tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa mang đầu đạn hạt nhân.
Năm 1962, Liên Xô bắt đầu xây dựng lắp đặt tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân tại Cuba. (Ảnh: http://www.todayifoundout.com).
Vào thời điểm này, Mỹ có tên lửa hạt nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ và Italia có thể tấn công Moscow trong vòng 16 phút sau khi được phóng. Liên Xô khi ấy dù có rất nhiều vũ khí hạt nhân hoàn toàn có khả năng hủy diệt các mục tiêu của đồng minh Mỹ trên khắp châu Âu, nhưng lại không có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở Mỹ. Vì vậy, Liên Xô cần phải có vũ khí hạt nhân ở Cuba, để lấy lại sự cân bằng trong Chiến tranh Lạnh.
Từ một bức ảnh do thám
Mùa thu năm 1962, một chiếc máy bay U-2 của Mỹ bay qua Cuba để tìm cách xác nhận thông tin tình báo về các trận địa tên lửa của Liên Xô ở San Cristobal (Cuba).
Ngày 14.10.1962, chiếc U-2 trở lại Mỹ đem theo hình ảnh xác thực các vị trí Liên Xô bí mật lắp đặt tên lửa đạn đạo tầm xa và tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, cách bờ biển Florida của Mỹ chỉ khoảng 90 dặm. Một ngày sau, những bức ảnh này được đặt lên bàn làm việc của Tổng thống J.F. Kennedy.
Ngày 15.10.1962 được coi là ngày khởi đầu cho Cuộc khủng hoảng tên lửa hạt nhân nghiêm trọng nhất trong lịch sử, kéo dài 13 ngày vào đúng thời điểm cao trào trong Chiến tranh Lạnh, khiến tình hình thế giới trở nên vô cùng căng thẳng trước nguy cơ nổ ra một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Ngày 22.10, Tổng thống Kennedy tuyên bố: “Vũ khí hạt nhân tên lửa đạn đạo có sức tàn phá khủng khiếp, bất kỳ việc triển khai đột ngột nào cũng có thể được coi là mối đe dọa nhất định đối với hòa bình thế giới … Tên lửa chiến lược của chúng ta chưa bao giờ được chuyển tới lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào dưới lớp vỏ choàng bí mật và dối trá”.
Hải quân Mỹ thực hiện chiến dịch kiểm soát nghiêm ngặt các vũ khí vận chuyển vào Cuba bằng đường biển. (Ảnh: learning-history.com).
Tổng thống Kennedy cũng công bố những hành động mà chính phủ Mỹ thực hiện để đáp trả việc triển khai vũ khí hạt nhân của Liên Xô tại Cuba, bao gồm “một chiến dịch kiểm soát nghiêm ngặt” tất cả các thiết bị quân sự chuyển tới Cuba bằng đường biển. Thuật ngữ “kiểm soát” để nhằm chỉ hành động “phong tỏa” của hải quân Mỹ, chặn mọi ngả đường dẫn vào bờ biển Cuba.
Ngày 24.10, Tổng thống Kennedy ra lệnh triển khai hàng trăm tàu chiến, bao gồm 4 tàu sân bay và nhiều máy bay tuần tra, máy bay săn tàu ngầm để phong tỏa bờ biển Cuba, đồng thời thông báo cho phía Liên Xô rằng, Mỹ sẽ thả bom chìm cảnh cáo nếu họ xác định đúng các tàu ngầm của Liên Xô và buộc tàu ngầm phải trồi lên mặt nước và quay trở về.
Có một điều mà Tổng thống Kennedy không biết được rằng, thời điểm đó Tổng bí thư Khrushchev đã gửi một biên đội tàu ngầm có trang bị vũ khí hạt nhân đang trên đường tới Cuba. Tất cả các tàu ngầm này đều được quyền tự quyết khai hỏa phóng ngư lôi hạt nhân nếu họ mất liên lạc với Moscow.
Đòn cân não
Ngày 1.10.1962, một đội gồm bốn tàu ngầm tấn công hạt nhân Foxtrot diesel di chuyển từ căn cứ Bắc Cực, gồm chiến hạm B-59, và ba tàu chị em, B-36, B-4 và B-130 thuộc Lữ đoàn tàu ngầm số 69 bí mật tìm đường băng qua hàng rào phong tỏa của tàu chiến Mỹ để tiếp cận Cuba.
Chỉ huy của nhóm tàu là thuyền trưởng Vasili Alexandrovich Arkhipov đi trên chiếc B-59 nhưng không chỉ huy nó. Thuyền trưởng của chiếc B-59 là Valentin Grigorievitch Savitsky. Ba trong bốn chiếc tàu ngầm ấy, chỉ cần sự đồng ý của chỉ huy tàu và sĩ quan chính trị là có quyền khởi động “vũ khí đặc biệt” trên tàu.
Tuy nhiên, trên chiếc B-59, cần phải có sự đồng ý của chỉ huy tàu, sĩ quan chính trị và “thuyền trưởng thứ hai”, Vasili Arkhipov. Thêm nữa, gần như không có thủy thủ nào biết trên tàu của họ mang theo một quả ngư lôi đầu đạn hạt nhân, có sức mạnh hủy diệt tương đương với quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima.
Không có thủy thủ nào trên B-59 biết trên tàu có vũ khí hạt nhân có sức hủy diệt như quả bom tại Hiroshima. (Ảnh: dailystar.co.uk).
Ngày 27.10.1962, trên hải phận quốc tế, lực lượng đặc nhiệm của tàu khu trục và máy bay tuần tra Mỹ đã phát hiện tàu ngầm B-59 khi nó đang nổi lên mặt nước để sạc ắc quy. Để tránh sự truy lùng của máy bay Mỹ, B-59 buộc phải lặn sâu xuống nước khi ắc quy chưa được nạp đầy.
Một cuộc vây lùng tàu B-59 với sự tham gia của 11 tàu khu trục Mỹ bắt đầu chiến dịch “quấy rối” bằng sóng siêu âm và thả bom chìm xung quanh chiếc B-59, như một dấu hiệu cho thấy đối phương muốn nó phải trồi lên mặt nước.
Lẩn trốn trong lòng đại dương, chịu áp lực bởi những quả bom chìm khiến tàu B-56 rung lắc dữ dội, bên trong nó là một trận chiến nảy lửa của đội ngũ cấp cao chỉ huy tàu, cùng thủy thủ đoàn hoàn toàn kiệt quệ vì căng thẳng và mệt mỏi.
Quan ngại là người Mỹ không hề biết mục tiêu họ đang truy kích dữ dội ấy là một tàu ngầm có mang theo đầu đạn hạt nhân và chỉ huy tàu B-59 khi ấy đang lưỡng lự: Liệu có khai hỏa?
Căng thẳng tột cùng
Trước sự bao vây của các chiến hạm Mỹ, tính tới thời điểm này, tàu B-59 đã lặn sâu dưới biển gần 4 tuần và gần 1 tuần mất liên lạc với Moscow, các thành viên trên tàu hầu như kiệt sức và không nhận thức được hoàn cảnh.
Điều quan trọng là B-59 được thiết kế để chịu được điều kiện băng giá của Bắc cực nhưng giờ lại phải chịu nhiệt độ quá nóng ở Đại Tây Dương. Vì hệ thống làm mát không được thiết kế cho vùng biển nhiệt đới nên khi nhiệt độ bên ngoài tàu lên tới hơn 30 độ C thì nhiệt độ trong tàu tăng tới 45 đến 60 độ C, mức CO2 đã trở nên nguy hiểm khiến nhiều thủy thủ bị ngất xỉu.
Độ ẩm cũng là một vấn đề nghiêm trọng, khẩu phần ăn bị cắt giảm và mỗi người chỉ được phép uống một ly nước mỗi ngày. Thủy thủ Anatoly Andreyev ghi trong nhật ký: “Ở đây, tình hình rất nghiêm trọng và ngày càng tồi tệ hơn, nhiều người bị bệnh, một số bị ngất xỉu, số khác bị phù nề. Không ai ngủ được trong cái nóng khủng khiếp và không khí ngột ngạt này. Hầu hết mọi người bị sốt phát ban”.
Việc chỉ huy tàu Savitsky ra lệnh cho B-59 lặn sâu hơn dưới đại dương để lẩn trốn khỏi sự truy lùng của tàu Mỹ đồng nghĩa với việc mọi liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Họ không thể nghe được bất cứ phương tiện truyền thông nào của Mỹ, cũng như không nhận được bất cứ liên lạc nào từ Moscow.
Lần hiếm hoi B-59 nổi lên sạc ắc quy nhưng đã bị máy bay Mỹ phát hiện nên buộc phải lặn sâu xuống biển. (Ảnh: learning-history.com).
Thời điểm ấy, họ không biết được rằng hải quân Mỹ đã thông báo cho phía Liên Xô biết “Thủ tục xác định vị trí và Nhận dạng Tàu ngầm”, rằng phía Mỹ sẽ thả bom chìm loại nhỏ để báo hiệu cho tàu ngầm Liên Xô biết họ đã bị phát hiện và buộc phải nổi lên mặt nước trước khi Mỹ sử dụng loại bom chìm uy lực hơn. Thật không may, Moscow không thể truyền đạt thông tin này cho chiếc B-59 do nó lặn quá sâu dưới nước.
Sức công phá của bom chìm dù nhỏ nhưng vẫn làm hỏng cột ăng ten vô tuyến khiến thủy thủ tàu B-59 không liên lạc được với sở chỉ huy. Bởi vậy, các sĩ quan trên tàu ngầm không hề biết đến “Thủ tục xác định vị trí và nhận dạng tàu ngầm” mà Mỹ đã thông báo cho phía Liên Xô dẫn đến việc Mỹ quyết định gửi tín hiệu cảnh báo mạnh mẽ hơn bằng cách sử dụng loại bom uy lực hơn.
Vadim Pavlovich Orlov, một sĩ quan tình báo truyền thông trên tàu B-59 đã mô tả về bom chìm nổ ngay bên cạnh thân tàu như sau: “Nó giống như bạn đang ngồi trong một thùng kim loại, mà ai đó liên tục nổ mìn bằng búa tạ”...
(Còn nữa...)